Xu Hướng 12/2023 # Bài Văn Mẫu Lớp 9: Bài Viết Số 6 (Đề 1 Đến Đề 2) Tuyển Tập 18 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất # Top 20 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Bài Văn Mẫu Lớp 9: Bài Viết Số 6 (Đề 1 Đến Đề 2) Tuyển Tập 18 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Pwqy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đề 1: Những suy nghĩ của em về tình mẫu tử trong đoạn trích trong lòng mẹ (Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng).

Đề 2: Truyện ngắn Làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp?

Ngoài các đề bài trên, có thể tham khảo các đề bài sau:

Đề 1: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương ở Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.

Đề 2: Phân tích diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn Làng của tác giả Kim Lân

Đề 3: Suy nghĩ về thân phận Thuý Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều của Nguyễn Du.

Đề 4: Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng

Bài văn mẫu lớp 9 bài viết số 6 – Đề 1

Đề 1: Những suy nghĩ của em về tình mẫu tử trong đoạn trích trong lòng mẹ (Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng)

Dàn ý chi tiết Bài viết số 6 lớp 9 đề 1

I. Mở bài:

– Giới thiệu tác phẩm trong lòng mẹ

– Ví dụ: Nói đến tình mẹ, một tình cảm thiêng liêng luôn được mọi thế hệ con người và nhân loại tôn kính và thể hiện trong cuộc sống. Đối với các nhà thơ, nhà văn thì tình mẹ con được thể hiện một cách rất sâu sắc và rõ ràng, được thể hiện một cách rất tình cảm. Một trong những cách thể hiện rõ nhất là sáng tác và viết ra những tác phẩm hay về tình mẹ, một tác phẩm được nhiều người biết đến là Trong lòng mẹ của nhà văn Nguyên Hồng.

II. Thân bài:

– Suy nghĩ của em về tình mẫu tử trong đoạn trích Trong lòng mẹ

* Hoàn cảnh đáng thương của chú bé Hồng trong tác phẩm Trong lòng mẹ

+ Cha mất

+ Mẹ đi tha hương

+ Sống nhờ người cô ruột nhưng không được yêu thương và hạnh phúc

+ Rất đáng thương và tội nghiệp

* Tình cảm của bé Hồng dành cho mẹ của mình

+ Dù cho cô nói gì thì vẫn giữ được tình yêu thương đối với mẹ

+ Không tin những lời đồn của cô về mẹ của mình

+ Bé Hồng đau khổ và khóc khi nghe cô nói không tốt về mẹ của mình

+ Khi nghe tin mẹ về, bé Hồng vui mừng nhưng thật sự vẫn không biết đó có thật sự là mẹ hay không

+ Nỗi khao khát, thiếu thốn và mong muốn được yêu thương

+ Là người con biết cảm thông với hoàn cảnh của mẹ

* Suy nghĩ về tình mẫu tử trong tác phẩm trong lòng mẹ

+ Tình mẫu tử thiêng liêng và sâu nặng

+ Không có gì có thể ngăn cản được tình cảm thiêng liêng ấy

III. Kết bài:

– Nêu cảm nghĩ của em về tình mẫu tử trong tác phẩm

– Ví dụ: Tình mẫu tử trong tác phẩm Trong lòng mẹ là một tình cảm vô cùng thiêng liêng và đáng quý. Tình cảm ấy đáng được quý trọng và nâng niu.

Bài viết số 6 lớp 9 đề 1 – Mẫu 1

Mẹ là người mang nặng đẻ đau sinh chúng ta ra, nuôi lớn trưởng thành. Mẹ là người luôn dành cho ta những tình cảm chân thành thiết tha nhất, luôn yêu thương sát cánh bên con trong cuộc đời. Có rất nhiều nhà thơ, nhà văn đã lựa chọn đề tài tình mẫu tử này đưa vào những vần thơ, câu chữ, để thể hiện tình cảm, sự biết ơn đối với mẹ của mình. Nguyên Hồng cũng vậy. Ông đã gửi gắm vào trong những câu chữ những tình cảm của mình dành cho mẹ cũng ca ngợi công lao to lớn, sự hi sinh của người mẹ dành cho đứa con của mình.

Những ngày thơ ấu là tập hồi kí về tuổi thơ cay đắng của tác giả. Tác phẩm gồm 9 chương , đăng trên báo năm 1938, in thành sách lần đầu năm 1940. Đoạn trích “Trong lòng mẹ” là chương IV của tác phẩm. Đọc đoạn trích, ta cảm nhận được những rung động mãnh liệt của một tâm hồn trẻ thơ đối với người mẹ, biểu lộ sâu sắc lòng yêu thương mẹ của bé Hồng. Đọc đoạn trích người đọc không khỏi xúc động trước tình yêu thương của chú bé Hồng dành cho người mẹ đáng thương của mình. Hồng là cậu bé được lớn lên trong một gia đình sa sút. Người cha sống u uất, trầm lặng, rồi chết trong nghèo túng, nghiện ngập. Người mẹ có trái tim khao khát yêu đương đành chôn vùi tuổi thanh xuân trong cuộc hôn nhân không có hạnh phúc. Sau khi chồng chết, người phụ nữ đáng thương ấy vì quá cùng quẫn phải bỏ con đi tha hương cầu thực và bị người đời gán cho cái tội “chưa đoạn tang chồng mà đã chửa đẻ với người khác”. Hồng phải sống cuộc sống mồ côi cha, thiếu vắng tình thương của người mẹ, sống nhờ người họ hàng giàu có nhưng cay nghiệt. Hồng chịu cảnh cô đơn, bị hắt hủi. Thế nhưng trái lại với thái độ căm thù và trách móc, Hồng thương mẹ và nhớ mẹ vô cùng

Ngay mở đầu đoạn trích, tình thương mẹ của Hồng bộc lộ trong ý nghĩ và tình cảm trong lần một màn đối thoại đầy kịch tính đẩy tâm trạng em đến những diễn biến phức tạp, căng thẳng đến cao độ với bà cô: “- Hồng, mày có muốn vào Thanh Hoá chơi với mẹ mày không?”, “… Mẹ mày phát tài lắm, có như dạo trước đâu… Tháng tám là giỗ đầu cậu mày, mợ mày về dù sao cũng đỡ tủi cho cậu mày, và mày còn phải có họ, có hàng, người ta hỏi đến chứ…” . Câu hỏi đầy ác ý ấy xoáy sâu vào tâm can của Hồng. Hồng hình dung vẻ mặt rầu rầu và sự hiền lành của mẹ, lại nghĩ tới những đêm thiếu thốn tình mẹ khiến Hồng phải khóc thầm thì Hồng muốn trả lời cô là: “có”. Nhưng cậu bé đã nhận ra ý nghĩ cay độc qua cách cười “rất kịch” của bà cô, cô chỉ cố ý gieo rắc vào đầu óc Hồng những mối hoài nghi về mẹ cậu. Trong tâm hồn một đứa trẻ mới lớn, Hồng trưởng thành hơn, em đã nhận thức đức sâu sắc qua lời đanh nghiến đó. Hồng đã cúi mặt không đáp, sau đó Hồng nở nụ cười thật chua xót. Hồng hiểu mẹ, hiểu được vì hoàn cảnh mà mẹ Hồng phải ra đi. Em đã khóc vì thương mẹ bị lăng nhục, bị đối xử bất công. Em khóc vì thân trẻ yếu đuối, cô đơn không sao bênh vực được mẹ. Càng thương mẹ, em càng căm ghét những hủ tục phong kiến vô lý, tàn nhẫn đã đầy đọa, trói buộc mẹ em: “Giá như những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát vụn mới thôi”. Chính tình thương mẹ đã khiến cho Hồng nhận ra đâu là lẽ phải, đâu là những con người, những tập tục đáng phê phán. Câu văn dài kết hợp nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc: so sánh “những cổ tục… là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ”, điệp từ “Mà” cùng các động từ mạnh: “vồ, cắn, nhai, nghiến” cùng nằm trong cùng một trường nghĩa đã đặc tả tâm trạng uất ức căm giận của nhân vật về những định kiến hẹp hòi tàn nhẫn của xã hội cũ đối với người mẹ mà chú bé Hồng hết mực yêu thương.

Tình thương ấy còn được biểu hiện rất sinh động, rất cụ thể trong lần gặp mẹ.Thoáng thấy bóng một người trên xe rất giống mẹ, Hổng liền chạy, đuổi theo bối rối gọi: ”Mợ ơi! Mợ ơi! Mợ… ơi!”. Tiếng gọi ấy cất lên hoảng hốt, gấp gáp như sợ bỏ lỡ điều gì. Những tiếng gọi ấy bật ra từ lòng khát khao được gặp mẹ của chú bé bấy lâu nay bị dồn nén. Sự thổn thức của trái tim thơ trẻ bật thành tiếng gọi. Khi đuổi theo được chiếc xe đó, Hồng được lòng bàn tay dịu hiền của người mẹ xoa lên đầu. Hồng oà khóc. Trong tiếng khóc ấy có cả niềm hạnh phúc được gặp mẹ, cả nỗi tủi thân bởi lâu quá không được gặp mẹ, bởi bao niềm cay đắng bị lăng nhục tàn nhẫn cùng những uất ức dồn nén được giải toả, tất cả vỡ òa ra trong những tiếng gọi mẹ. Nằm trong lòng mẹ, Hồng mải mê ngắm nhìn và suy nghĩ về mẹ, say sưa tận hưởng những cảm giác êm dịu khi được ngồi trong lòng mẹ để bàn tay người mẹ vuốt ve. Trong giây phút này, Hồng như sống trong “tình mẫu tử” hạnh phúc ấy Hạnh phúc trong lòng mẹ không chỉ là hạnh phúc, là niềm khao khát của riêng Hồng mà là khao khát, là mong muốn của bất kỳ đứa trẻ nào.

Từ lúc lên xe đến khi về nhà, Hồng không còn nhớ gì nữa. Cả những lời mẹ hỏi, cả những câu trả lời của cậu và những câu nói của người cô bị chìm ngay đi – Hồng không nghĩ đến nó nữa…Sự xúc động của bé Hồng khi gặp mẹ càng chứng tỏ tình thương mẹ của Hồng là sâu đậm, là nồng thắm, là nguyên vẹn. Bất chấp tất cả sự ngăn cách của rào cản lễ giáo phong kiến hà khắc đối với người phụ nữ nói chung và đối với mẹ Hồng nói riêng.

Với phong cách viết văn thấm đượm chất trữ tình, lời văn tự truyện chân thành, giàu sức truyền cảm, đoạn trích cho ta thấy bé Hồng là cậu bé chịu số phận cay đắng, đau khổ nhưng có lòng yêu thương, sự kính trọng và niềm tin mãnh liệt về người mẹ của mình.

Với phong cách viết văn thấm đượm chất trữ tình, lời văn tự truyện chân thành, giàu sức truyền cảm, đoạn trích cho ta thấy bé Hồng là cậu bé chịu số phận cay đắng, đau khổ nhưng có lòng yêu thương, sự kính trọng và niềm tin mãnh liệt về người mẹ của mình. Không những thế Nguyên Hồng đã vạch trần ra hiện thực xã hội phong kiến lúc bấy giờ, những người như mẹ của Hồng, họ là những người phụ nữ với số phận bất hạnh. Chính miệng đời thế gian cùng những hủ tục phong kiến đã làm cho cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội xưa trở lên thấp bé, bất hạnh.

Tình mẫu tử trong đoạn trích thật đẹp đẽ, thiêng liêng, xúc động. Nguyên Hồng đã mở ra trước mắt chúng ta một thế giới tâm hồn phong phú. Thế giới ấy luôn làm chúng ta ngạc nhiên vì ánh sáng nhân đạo lấp lánh của tình người.Trong lòng mẹ chính là lời khẳng định chân thành đầy cảm động về sự bất diệt của tình mẫu tử!

Bài viết số 6 lớp 9 đề 1 – Mẫu 2

Nói đến Nguyên Hồng, người ta nhớ ngay một giọng văn như trút cả bao xúc động đắng đót vào trong những câu chuyện của ông. Hồi ký “Những ngày thơ ấu” là kỷ niệm xót xa của cậu bé Hồng, mang theo cái dư vị đắng chát của tuổi thơ khát khao tình mẹ. Cho đến tận bây giờ, khi đọc lại những trang viết này, người đọc vẫn lây lan cảm giác của cậu bé sớm phải chịu thiếu thốn tình cảm, để rồi chợt nhận ra: tình mẫu tử là nguồn sức mạnh thiêng liêng và diệu kỳ, là nguồn an ủi và chở che giúp cho đứa trẻ có thể vượt lên bao đắng cay tủi nhục và bất hạnh.

Đoạn trích Trong lòng mẹ là hồi ức đan xen cay đắng và ngọt ngào của chính nhà văn – cậu bé sinh ra trong một gia đình bất hạnh: người cha nghiện ngập rồi chết mòn, chết gục bên bàn đèn thuốc phiện, người mẹ cùng túng phải đi tha phương cầu thực, cậu bé Hồng đã phải sống trong cảnh hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt của chính những người trong họ hàng. Cậu bé phải đối mặt với bà cô cay nghiệt, luôn luôn “tươi cười” – khiến hình dung đến loại người “bề ngoài thơn thớt nói cười – mà trong nham hiểm giết người không dao”. Đáng sợ hơn, sự tàn nhẫn ấy lại dành cho đứa cháu ruột vô tội của mình. Những diễn biến tâm trạng của bé Hồng trong câu chuyện đã được thuật lại bằng tất cả nỗi niềm đau thắt vì những ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ. Kỳ diệu thay, những trang viết ấy lại giúp chúng ta hiểu ra một điều thật tự nhiên giản dị: Mẹ là người chỉ có một trên đời, tình mẹ con là mối dây bền chặt không gì chia cắt được.

Trước khi gặp mẹ: Nói một cách công bằng, nếu chỉ nhìn vào bề ngoài cuộc sống của cậu bé Hồng, có thể nói cậu bé ấy vẫn còn may mắn hơn bao đứa trẻ lang thang vì còn có một mái nhà và những người ruột thịt để nương tựa sau khi cha mất và mẹ bỏ đi. Nhưng liệu có thể gọi là gia đình không khi chính những người thân – mà đại diện là bà cô ruột lại đóng vai trò người giám hộ cay nghiệt. Tấm lòng trẻ thơ ấy thật đáng quý. Đối với bé Hồng, bao giờ mẹ cũng là người tốt nhất, đẹp nhất. Tình cảm của đứa con đã giúp bé vượt qua những thành kiến mà người cô đã gieo rắc vào lòng cậu

“Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là góa chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha phương cầu thực. Nhưng đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến…”

Nhưng ta cũng nhận ra những vết thương lòng đau nhói mà bé Hồng đã sớm phải gánh chịu. Sự tra tấn tinh thần thật ghê gớm. Sức chịu đựng của một cậu bé cũng có chừng mực. Ta chứng kiến và cảm thương cho từng khoảnh khắc đớn đau, cậu đã trở thành tấm bia hứng chịu thay cho mẹ những ghẻ lạnh, thành kiến của người đời: “Tôi lại im lặng cúi đầu xuống đất: lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay”

Dù đã kìm nén hết mức nhưng những lời độc ác kia vẫn đạt được mục đích khi đã lấy được những giọt nước mắt tủi nhục của một đứa trẻ không đủ sức tự vệ . Ta chợt ghê sợ trước loại người như bà cô – họ vẫn lẩn quất đâu đó quanh ta, với trò tra tấn gặm nhấm dần niềm tin con trẻ. Liệu ta có hoà chung giọt nước mắt này chăng: “Nước mắt tôi ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và cổ”.

Càng thương cho cậu bé Hồng, ta lại càng căm uất sự ghẻ lạnh của người đời trước những số phận bất hạnh. Từ nhận thức non nớt, cậu bé ấy cũng đã kiên quyết bảo vệ mẹ mình, bất chấp những thành kiến ác độc: “Chỉ vì tôi thương mẹ tôi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi, để sinh nở một cách giấu giếm… Tôi cười dài trong tiếng khóc”. Dường như khoảnh khắc cười dài trong tiếng khóc kia chứa chất sự phẫn nộ và khinh bỉ không cần giấu giếm Trong thâm tâm, liệu rằng cậu bé ấy có khi nào oán trách mẹ mình đã nhẫn tâm bỏ con không? Có lẽ không bao giờ, bởi lẽ niềm khao khát được gặp lại mẹ lúc nào cũng thường trực trong lòng cậu bé.

Bài viết số 6 lớp 9 đề 1 – Mẫu 3

Mỗi người đều có cho mình những tình cảm thiêng liêng, và với riêng tôi, có lẽ không gì bằng tình mẫu tử thiêng liêng, cao đẹp. Đó là tình cảm chảy suốt cuộc đời trong lòng mỗi người, nó dẫn dắt và làm điểm tựa cho ta, cho ta tình yêu và động lực để vững vàng bước tiếp. Nhưng đâu phải ai cũng may mắn được hưởng tình cảm thiêng liêng ấy, cũng có một cậu bé Hồng “trong lòng mẹ” đó thôi. Nguyên Hồng với trích đoạn ấy đã khiến ta phải bồi hồi xúc động, suy ngẫm về tình mẫu tử.

Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng, cao quý giữa người mẹ và đứa con. Trong tiếng anh, từ đẹp nhất người ta cũng cho rằng đó là từ “mother” (mẹ). vậy đấy, chẳng phân biệt đông tây kim cổ thời đại nào, tình cảm ấy cũng luôn được đề cao, tôn trọng và dành một vị trí riêng trong lòng mỗi người. Nhưng chẳng phải ai trên thế gian này cũng may mắn được nhận suối nguồn yêu thương vô gia ấy. dẫu biết rằng tình mẹ bao la, dẫu biết rằng đó là tài sản, là đại dương quý giá mà không bao giờ con người ta có thể cân đong đo đếm cho được. Nhưng vì nó càng quý giá, nên khi đã không được nhận tình cảm ấy thì quả là một bất hạnh. Ta từng gặp một cậu bé Hồng như thế trong đoạn trích “Trong lòng mẹ” của Nguyên Hồng.

Do bị đẩy vào một cuộc hôn nhân không tình yêu, người chồng mất sớm, điều kiện kinh tế khó khăn người mẹ cậu bé đã phải bỏ đi tha phương cầu thực. Thật tội nghiệp biết bao, chú bé Hồng phải ở nhà với người bà cô ác độc, xấu xa luôn tìm cách soi mói và chỉ trích mẹ cậu. Nhưng cậu bé không bao giờ vào hùa với bà ta, luôn giữ thái độ tôn trọng nhưng cũng luôn tìm cách bảo vệ mẹ trước những lời lẽ ác độc ấy. Cậu biết rằng chính những hủ tục lạc hậu đã đầy đọa mẹ cậu, đã khiến cậu phải xa cách người mẹ đáng kính ấy. vậy nên, tình mẫu tử ở trong cậu bé mà ta có thể cảm nhận đó là lòng căm thù và khinh ghét những hủ tục đã đày đọa mẹ cậu, cậu ước gì nó là hòn đá hay mẩu thủy tinh để nghiền nát, để cắn, nhau cấu xé nó ra thành trăm mảnh.

Tình mẫu tử ấy còn là niềm khát khao mong mỏi được gặp lại người mẹ sau bao năm xa cách. Đến nỗi mà cậu cảm thấy, mình thèm khát tình cảm ấy như người bộ hành đi giữa sa mạc. Và nỗi tình cảm sung sướng, hạnh phúc dâng trào khi hôm đó, sau khi tan học cậu được gặp người mẹ bằng xương bằng thịt. cậu ngồi trên đùi mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của mẹ, cảm giác hạnh phúc đến tột cùng khi được sống trong vòng tay yêu thương mà bấy lâu nay cậu vẫn luôn khao khát. Cảm giác mãn nguyện và thanh thản khi biết rằng mẹ cậu vẫn hồng hào, xinh tươi và trọn vẹn chứ không xanh xao như lời bà cô nguyền rủa. Như thế, tình mẫu tử còn là niềm hạnh phúc thiêng liêng vô bờ khi được sống trong vòng tay mẹ, khi được ngắm nhìn mẹ vẫn mạnh khỏe, vẫn phúc hậu như thuở ban đầu. Tình cảm ấy vừa chân thực, vừa cao quý, hồn nhiên mà rất đỗi thiêng liêng.

Như vậy, chỉ với một đoạn trích ngắn, ta có thể cảm nhận tình mẫu tử thiêng liêng của cậu bé Hồng và người mẹ tội nghiệp. Còn gì cao quý, thiêng liêng hơn nỗi xúc động nghẹn ngào ấy và người đọc dường như đã rớt nước mắt trên trang sách của Nguyên Hồng. Để qua đấy, nhà văn muốn nói với chúng ta rằng: ai hạnh phúc khi đang còn mẹ, được mẹ bảo bọc yêu thương hãy trân trọng và giữ gìn nó. Đó chính là hạnh phúc lớn lao mà cũng bình dị, gần gũi ngay đây.

Bài viết số 6 lớp 9 đề 1 – Mẫu 4

Cho đến tận bây giờ, khi đọc lại những trang viết này, người đọc vẫn lây lan cảm giác của cậu bé sớm phải chịu thiếu thốn tình cảm, để rồi chợt nhận ra: Tình mẫu tử là nguồn sức mạnh thiêng liêng và diệu kỳ, là nguồn an ủi và chở che giúp cho đứa trẻ có thể vượt lên bao đắng cay tủi nhục và bất hạnh.

Đoạn trích ”Trong lòng mẹ” là hồi ức đan xen cay đắng và ngọt ngào của chính nhà văn – cậu bé sinh ra trong một gia đình bất hạnh: Người cha nghiện ngập rồi chết mòn, chết gục bên bàn đèn thuốc phiện, người mẹ cùng túng phải đi tha phương cầu thực, cậu bé Hồng đã phải sống trong cảnh hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt của chính những người trong họ hàng. Cậu bé phải đối mặt với bà cô cay nghiệt, luôn luôn “tươi cười” – khiến hình dung đến loại người “bề ngoài thơn thớt nói cười – mà trong nham hiểm giết người không dao”. Đáng sợ hơn, sự tàn nhẫn ấy lại dành cho đứa cháu ruột vô tội của mình. Những diễn biến tâm trạng của bé Hồng trong câu chuyện đã được thuật lại bằng tất cả nỗi niềm đau thắt vì những ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ. Kỳ diệu thay, những trang viết ấy lại giúp chúng ta hiểu ra một điều thật tự nhiên giản dị: Mẹ là người chỉ có một trên đời, tình mẹ con là mối dây bền chặt không gì chia cắt được

Trước khi gặp mẹ: Nói một cách công bằng, nếu chỉ nhìn vào bề ngoài cuộc sống của cậu bé Hồng, có thể nói cậu bé ấy vẫn còn may mắn hơn bao đứa trẻ lang thang vì còn có một mái nhà và những người ruột thịt để nương tựa sau khi cha mất và mẹ bỏ đi. Nhưng liệu có thể gọi là gia đình không khi chính những người thân – mà đại diện là bà cô ruột lại đóng vai trò người giám hộ cay nghiệt. Tấm lòng trẻ thơ ấy thật đáng quý. Đối với bé Hồng, bao giờ mẹ cũng là người tốt nhất, đẹp nhất. Tình cảm của đứa con đã giúp bé vượt qua những thành kiến mà người cô đã gieo rắc vào lòng cậu.

“Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là góa chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha phương cầu thực. Nhưng đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến…”

Nhưng ta cũng nhận ra những vết thương lòng đau nhói mà bé Hồng đã sớm phải gánh chịu. Sự tra tấn tinh thần thật ghê gớm. Sức chịu đựng của một cậu bé cũng có chừng mực. Ta chứng kiến và cảm thương cho từng khoảnh khắc đớn đau, cậu đã trở thành tấm bia hứng chịu thay cho mẹ những ghẻ lạnh, thành kiến của người đời: “Tôi lại im lặng cúi đầu xuống đất: Lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay”

Dù đã kìm nén hết mức nhưng những lời độc ác kia vẫn đạt được mục đích khi đã lấy được những giọt nước mắt tủi nhục của một đứa trẻ không đủ sức tự vệ. Ta chợt ghê sợ trước loại người như bà cô – họ vẫn lẩn quất đâu đó quanh ta, với trò tra tấn gặm nhấm dần niềm tin con trẻ. Liệu ta có hoà chung giọt nước mắt này chăng: “Nước mắt tôi ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và cổ”.

Càng thương cho cậu bé Hồng, ta lại càng căm uất sự ghẻ lạnh của người đời trước những số phận bất hạnh. Từ nhận thức non nớt, cậu bé ấy cũng đã kiên quyết bảo vệ mẹ mình, bất chấp những thành kiến ác độc: “Chỉ vì tôi thương mẹ tôi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi, để sinh nở một cách giấu giếm… Tôi cười dài trong tiếng khóc”. Dường như khoảnh khắc cười dài trong tiếng khóc kia chứa chất sự phẫn nộ và khinh bỉ không cần giấu giếm. Trong thâm tâm, liệu rằng cậu bé ấy có khi nào oán trách mẹ mình đã nhẫn tâm bỏ con không? Có lẽ không bao giờ, bởi lẽ niềm khao khát được gặp lại mẹ lúc nào cũng thường trực trong lòng cậu bé.

Ta xúc động biết bao nhiêu trước khoảnh khắc hồi hộp lo lắng của cậu bé khi sợ mình nhận nhầm mẹ. Linh cảm và tình yêu dành cho mẹ đã không đánh lừa cậu, để đền đáp lại là cảm giác của đứa con trong lòng mẹ – cảm giác được chở che, bảo bọc, được thương yêu, an ủi. Hình ảnh mẹ qua những trang viết của nhà văn thật tươi tắn sinh động, là sự diệu kỳ giúp cậu bé vượt lên nỗi cay đắng của những ngày xa mẹ. Mỗi khi đứng trước mẹ, có lẽ mỗi một người trong chúng ta cũng sẽ cảm nhận được tình mẹ giống như cậu bé Hồng: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Không khóc sao được, khi những uất ức nén nhịn có dịp bùng phát, khi cậu bé có được cảm giác an toàn và được chở che trong vòng tay mẹ.

Bài văn mẫu lớp 9 bài viết số 6 – Đề 2

Đề 2: Truyện ngắn Làng của Kim Lân gợi lên cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp?

Dàn ý chi tiết Bài viết số 6 lớp 9 đề 2

I. Mở bài:

– Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm

+ Kim Lân là nhà văn am hiểu cuộc sống nông thôn và người dân Miền Bắc. Ông có sở trường viết truyện ngắn và truyện của ông thường viết về đề tài nông dân.

+ Truyện ngắn “Làng” được ông sáng tác trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang bùng nổ trên quy mô toàn quốc.

– Nêu nhận định những chuyển biến tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.

Ví dụ: Đây là một tác phẩm xuất sắc thể hiện thành công hình ảnh người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến mà tình yêu làng quê đã hoà nhập tròng lòng yêu nước và tinh thần của người dân kháng chiến. Nhân vật ông Hai trong truyện có những nét tình cảm cao đẹp và đáng quý đó.

II. Thân bài:

a. Khái quát đề tài

Nội dung chính: Ở mỗi người nông dân, quả thực tình yêu làng quê là bản chất có tính truyền thống. Yêu làng, gắn bó với làng, tự hào về làng của mình vốn là tâm lý rất quen thuộc có tính gốc rễ. Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lý chung ấy trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai. Ở ông Hai, tình cảm chung đó mang màu sắc riêng, in rõ cá tính chỉ riêng ông mới có.

b. Luận điểm chứng minh:

Luận điểm 1: Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thống của người nông dân trong nhân vật ông Hai khi đi tản cư..

– Ở nơi tản cư, lòng ông đau đáu nhớ quê, cứ “ nghĩ về những ngày làm việc cùng anh em”, ông nhớ làng quá.

– Ông Hai khoe và tự hào về cái làng Dầu không chỉ vì nó đẹp mà còn bởi nó tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc.

– Ông không đọc được chữ nhưng luôn tìm cách nghe tin tức về kháng chiến “chẳng sót một câu nào”. Niềm vui của ông khi nghe được tin thắng trận của quân ta

Luận điểm 2: Tình yêu làng gắn bó với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc.

– Khi nghe tin Làng theo giặc quá đột ngột, ông Hai sững sờ, xấu hổ và uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy”. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quý nhất nay cũng đã lại quay lưng lại với ông. Ông cúi gằm mặt đi về trong sự xấu hổ tủi nhục

– Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt: Ông nằm suy nghĩ về bản thân, về ngôi làng, về những người tản cư làng mình liệu đã nghe tin này chưa, về lũ con còn nhỏ

– Cuộc sống của ông những tháng ngày về sau đó là chuỗi ngày sống trong lo sợ, nghi ngờ và tủi nhục: Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”.

Luận điểm 3: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng kháng chiến

– Đến khi biết đích xác làng Dầu yêu quý của ông không phải là làng Việt gian, nỗi vui mừng của ông Hai thật là vô bờ bến: “Ông cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người”, mặt ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Ông sung sướng hể hả loan báo cho mọi người biết cái tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ” một cách tự hào .

Luận điểm 4: Nghệ thuật xây dựng nhân vật ông Hai

– Nhà văn Kim Lân đã khá thành công khi xây dựng nhân vật ông Hai, một lão nông cần cù, chất phác, yêu mến, gắn bó với làng quê như máu thịt.

+ Nhà văn đã chọn được một tình huống khá độc đáo là sự thử thách bên trong bộc lộ chiều sâu tâm trạng.

+ Tâm lý nhân vật được nhà văn miêu tả cụ thể, gợi cảm qua các diễn biến nội tâm, qua các ý nghĩ, cảm giác, hành vi, ngôn ngữ. Đặc biệt là nhà văn đã diễn tả đúng và gây được ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật.

III. Kết bài:

– Nhận định sức hấp dẫn của hình tượng nhân vật ông Hai.

– Khẳng định sự thành công của nhà văn khi xây dựng nhân vật ông Hai đồng thời khẳng định được những chuyển biến cảm xúc của những người nông dân những năm tháng kháng chiến chống Pháp.

Bài viết số 6 lớp 9 đề 2 – Mẫu 1

Khác với nhiều nhà thơ nhà văn khác, Kim Lân là nhà văn được mọi người biết đến cây bút viết cho những người nông dân những năm kháng chiến chống Pháp cứu nước. Hình ảnh ông Hai được tác giả xây dựng trong bài là tượng trưng cho hình ảnh những người nông dân chân chất thật thà có tình yêu quê hương đất nước sâu nặng. Sự thành công trong việc miêu tả sự thay đổi tâm lí nội tâm nhân vật ông Hai qua đó thể hiện những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp

Kim Lân là nhà văn chuyên viết về truyện ngắn và đã có sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông sống gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn. Trong kháng chiến, ông tiếp tục viết về tinh thần kháng chiến của người nông dân. Truyện ngắn “Làng” được viết trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Truyện thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của dân tộc, đó là tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh ông Hai trong tác phẩm tượng trưng cho hình ảnh những người nông dân lúc bấy giờ. Những chuyển biến tâm trạng của ông bộc lộ rõ nét thông qua chi tiết ông khoe làng, khi nghe tin làng theo giặc và đến khi nghe ti được cải chính. Thông qua cách miêu tả tâm lí, nội tâm nhân vật, Kim Lân đã làm nên những giá trị nội dung, ý nghĩa cho tác phẩm.

Những dòng văn tiếp theo là những chuyển biến mới của tâm trạng khi nghe ông ở nơi tản cư, xa quê hương. Được giác ngộ lý tưởng cách mạng, trung thành với cách mạng, với tổ quốc thân yêu. ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, về việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Xa làng, ông nhớ quá cái không khí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”; rồi ông lo “cái chòi gác,… những đường hầm bí mật…” đã xong chưa? Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lý chung ấy trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai đặc biệt qua cách ông khoe làng. Đó là niềm tự hào sâu sắc về một làng quê, có tính truyền thống của người nông dân. Mặc dù đang trong cảnh tản cư đi nơi khác những ông vẫn luôn quan tâm, để ý đến những thông tin đánh giặc đặc biệt là những thông tin về ngôi làng của chính mình. Mặc dù không đọc được chữ nhưng ông vẫn đều đặn đến phòng thông tin nghe đọc báo, để rồi mỗi lần xuýt xoa khen ngợi trước những thông tin quân ta chiến thắng:” Một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong “ hay như ?” Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc”. Những thông tin ấy cứ làm ông “ múa cả lên” vui mừng khôn xiết. Đây là bước chuyển biến mới rất quan trọng về nhận thức và tình cảm của người nông dân trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp.

Diễn biến tâm trạng được chuyển biến khi ông Hai nghe được tin cải chính, mọi gánh nặng tâm lý tủi nhục được trút bỏ, ông Hai tột cùng vui sướng và càng tự hào về làng Chợ Dầu. Ông vội vàng thông báo với mọi nhà: “ Tây nó đốt nhà tôi rồi các ông ạ”, làng ông bị giặc phá, nhà ông bị giặc đốt, tin làng theo giặc là “sai sự mục đích cả”. Cái cách ông đi khoe Tây đốt nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước” của người nông dân lao động bình thường. Việc ông rành rọt kể về trận chống càn ở làng Chợ Dầu thể hiện rõ tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.

Kim Liên đã thành công trong việc miêu tả tâm lí nội tâm nhân vật. Tác giả đã đặt nhân vật vào tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng. Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại. Ngôn ngữ của ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa mang đậm cá tính nhân vật nên rất sinh động. Tình cảm của ông Hai đối với ngôi làng của mình chính là biểu tượng tượng trưng cho tình yêu nước, quyết trung thành với đảng của những người nông dân chân lấm tay bùn, hiền lành chất phác những năm kháng chiến chống Pháp cứu nước. Tình yêu làng gắn liền với tình yêu Tổ quốc. Đây chính là nhận thức mới của người nông dân những năm kháng chiến chống Pháp mà đại diện là ông Hai.

Bài viết số 6 lớp 9 đề 2 – Mẫu 2

Đề tài người nông dân trong kháng chiến là một trong những nguồn cảm hứng bất tận của thơ văn. Có rất nhiều tác giả thành công ở đề tài này tuy nhiên viết hay viết sát nhất chỉ có thể là Kim Lân. Ông được mệnh danh là nhà văn của những người nông dân. Tác phẩm Làng của ông, với nhân vật chính là ông Hai để cho người đọc nhiều suy ngẫm sâu sắc. Những chuyển biến trong tâm lí nhân vật ông Hai cũng chính là đại diện cho tầng lớp nông dân Việt Nam thời kháng chiến.

Truyện ngắn Làng được nhà văn sáng tác vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vĩ đại. Câu chuyện xoay quanh nhân vật ông Hai cùng với những diễn biến tâm lí của nhân vật thể hiện tình yêu đất nước sâu sắc.

Có thể nói nhà văn Kim Lân đã vô cùng thành công khi khắc họa thành công diễn biến tâm lí của nhân vật gắn liền với cốt truyện mang đến cho người đọc cái nhìn đa chiều nhất về chuyển biến tâm lí của người nông dân trong kháng chiến chống Pháp. Tình yêu đất nước yêu quê hương chung thành với cách mạng với Cụ Hồ đằm thắm và mộc mạc như những gì họ thể hiện vậy.

Ông Hai là một người có tình yêu làng, yêu nơi chôn nhau cắt rốn của mình vô cùng sâu sắc. Ông sinh ra và lớn lên tại làng Chợ Dầu. Một ngôi làng từ lúc chưa kháng chiến ông tự hào vì có cái dinh tổng đốc lớn nhất nhì nhưng sau khi cách mạng bùng nổ ông lại chuyển sang ca ngợi làng với toàn những đá xanh, cái chòi thông tin cao đến ngọn tre chiều chiều loa gọi cả làng ra nghe. Thế rồi khi có lệnh tản cư ông vì bất đắc dĩ lại phải xa làng. Thế nhưng tình yêu đó không bao giờ mất đi đến nơi tản cư thỉnh thoảng ngồi buồn ông lại nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, nhớ về những người anh em đồng chí của mình.

Cái tin làng chợ Dầu đến như một cú sốc lớn trong cuộc đời của ông Hai. Nghe tin dữ ông bần thần cả người. Ông còn cố hỏi lại cho chắc hay nó chỉ là tin đồn thất thiệt. Chỉ khi nghe được câu “Chúng nó đi theo giặc hết rồi, từ thằng chủ tịch trở xuống”. Ông mới thôi hi vọng, lết từng bước nặng nhọc về đến nhà. Ông nằm vật ra đường, đau quá, nỗi đau nỗi tủi hổ như dày xéo tâm hồn ông. Ông gắt gỏng với cả người vợ của mình, mấy đứa con vì thế cũng chả dám cười đùa nữa.

Suốt mấy ngày ông chẳng dám bước chân ra cổng vì sợ. Sợ ánh mắt dị nghị, sợ chỉ chỏ của những kẻ lắm lời. Sự khinh rẻ của mụ chủ nhà có ý định đuổi cả nhà đi càng khiến tâm trạng ông Hai trở nên suy sụp. Lúc này ông chỉ biết tìm đến tâm sự với các con, như một sự an ủi cuối cùng của cuộc đời mình. Ông hỏi chúng “có yêu nước không?”, “theo ai”… Tiếng con trẻ hùng dũng hô vang “theo cụ Hồ Chí Minh muôn năm ạ”. Ông cười một cách đầy chua xót. Những đứa trẻ tội nghiệp mang tiếng con làng Việt gian của ông đây rồi, đến chúng còn biết đến theo Cụ Hồ cơ mà vậy thì nỡ cơ sự nào lại thế được.

Ngay lúc này tâm trí của ông Hai bị dày vò một cách khốn khổ, mâu thuẫn tâm lý đến mức đỉnh điểm đầy ông vào một sự lựa chọn vô cùng khó khăn. Vốn trong cái tâm trí thâm căn cố đế chỉ có quê hương bởi lẽ với những người nông dân ngày xưa thì “ta về ta tắm ao ta/ dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn” vậy mà ông đã phải đưa ra một quyết định vô cùng khó khăn “làng thì yêu thật nhưng làng theo giặc rồi thì phải thù”.

Đến đây ông chỉ biết ôm lũ con vào lòng mà khóc, bởi ông biết rằng đó là một nỗi nhục vô cùng lớn trong cuộc đời ông. Chỉ đến khi nghe tin làng Chợ Dầu được cải chính từ ông chủ tịch xã niềm vui mới trở về trên môi ông. Ông lật đật mua kẹo về chia cho con, rồi lại lật đật chạy sang nhà bác Thứ hàng xóm để khoe cái tin làng Chợ Dầu không theo giặc, cả làng bị đốt sạch rồi. Với người ông dân con trâu, mảnh đất là sự nghiệp của cả đời họ thế nhưng lúc này nó chẳng là gì so với tình yêu nước. Niềm tin ý chí mãnh liệt đó đã trở thành một truyền thống quý báu của toàn dân tộc ta.

Với kết cấu chuyện đơn giản xoay quanh diễn biến tâm lí nhân vật ông Hai nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công bức tranh làng quê trong kháng chiến chống Pháp vĩ đại. Nó thể hiện niềm tin ý chí bất diệt vào Đảng và Bác Hồ. Trở thành một trong những điểm sáng của cả dân tộc. Ông Hai đã nhận được nhiều tình cảm yêu mến của độc giả về tinh thần yêu nước sâu sắc, về diễn biến tâm lí vô cùng chân thực và thật của mình.

Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những tác phẩm vô cùng xuất sắc về đề tài người nông dân trước cách mạng. Nó chính là bức tranh sống động về tinh thần quả cảm, về ý chí mãnh liệt vào cách mạng thời bấy giờ.

Bài viết số 6 lớp 9 đề 2 – Mẫu 3

Kim Lân là nhà văn rất am hiểu cuộc sống của người nông dân ở nông thôn miền Bắc. Tất cả các truyện của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Truyện Làng được Kim Lân sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp chí văn nghệ năm 1948. Nhân vật chính của truyện là hình ảnh tiêu biểu và chân thực của người nông dân trong mới ngày đầu tiếp xúc với cách mạng, với lòng yêu làng, yêu nước sâu sắc, với sự hồ hởi say mê, tin yêu, chung thuỷ với kháng chiến, với Bác Hồ.

Ông hai nhân vật chính trong truyện là một người yêu làng, yêu nước tình yêu làng của ông có những nét đặc sắc, riêng biệt được thể hiện thành một đức tính đáng quý.

Là một nông dân suốt cuộc đời sống ở quê hương, gắn bó máu thịt với từng con đường, từng nếp nhà, thửa ruộng, từng ngọn cỏ, cành cây và biết bao người ruột thịt , xóm giềng, họ hàng gần xa, vậy mà giờ đây vì giặc ngoại xâm, ông 2 phải xa rời quê hương đi tản cư, sống nhờ nơi đất khách quê người. Do đó lòng ông đau đáu nhớ quê.

Ban ngày lo bận việc sản xuất, ổn định cuộc sống, chiều rồi buổi tối ông hai lại sang hàng xóm giãi bày nỗi nhớ của mình. Trong câu chuyện, ông không ngớt lời khoe những cái đẹp, điều hay ở quê hương mình. Làng Chợ Dầu quê ông đẹp lắm, đường là phong quang sạch sẽ, cái cổng làng rộng như cổng thanh… Ông khoe cả cái “sinh phần”- lăng mộ – của viên tổng đốc người làng, mặc dầu đó là một chứng tích đau khổ của dân làng, trong đó có ông.

Đặc biệt là ông hai khoái nhất khoe và kể nhiều nhất là những ngày đầu cách mạng tháng 8. Quê hương được giải phóng, thoát khỏi ách cường hào phong kiến và lũ tay sai thực dân. Dân làng ông bắt đầu cuộc sống mới. Đêm đêm rậm rịch tiếng bước chân của đoàn du kích tập quân sự, sáng, chiều râm ran tiếng trẻ em học bài… lại cả những tiếng hát của thanh niên ngân vang trong những buổi cả làng bàn việc nước, việc dân… nghe những chuyện ấy, mọi người đều thông cảm với lòng nhớ quê da diết của ông.

Advertisement

Không chỉ nhớ mà ông còn luôn tự hào, cho rằng làng chợ Dầu của ông đẹp nhất nhì thiên hạ. Đó là một người yêu quê hương tha thiết bằng một tình cảm tự nhiên , hồn nhiên. Tình cảm đó bắt nguồn từ những kỉ niệm trong cuộc sống hằng ngày,từ những sự vật, con người gắn bó hàng ngày … Tình cảm đó thuần phác và trong sáng biết bao.

Khi nghe tin làng chợ dầu theo Tây ông hai “cổ nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân” . Trước hết là sự xót xa của ông về làng mình , sự phản bội của nơi chôn rau cắt rốn của mình . Ông lão tủi hổ, bàng hoàng trước sự việc đó . Tình yêu làng vẫn thắm thiết trong ông, làng chợ Dầu vẫn là nới ông gửi gắm sinh mệnh, danh dự và niềm hãnh diện, tự hào. Vậy mà bây giờ… ông lão nghĩ tới việc trở về làng. Song ý nghĩ đó ông gạt phắt đi. Trong sự tuyệt vọng, đau khổ này, lối thoát về làng chợ Dầu loé lên như một tia hi vọng rồi lại tắt ngấm.

Từ lâu ông yêu làng ông, mong được trở về với làng ông song trong ông tình yêu nước mạnh hơn, thiêng liêng hơn: không vì làng mà bỏ nước, bỏ kháng chiến. Giữa sự giằng co trong tâm hồn, ông hai đã thốt lên đầy đau đớn song đầy quyết tâm: “Làng thì yêu thật đấy , nhưng làng theo Tây thì phải thù .. Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông, cái lòng bố con ông là như thế đấy , có bao giờ dám đơn sai. Chết thì bao giờ dám đơn sai.” Khi ông tâm sự với con, ông Hai muốn bảo con nhớ câu “nhà ta ở làng chợ dầu”. Đồng thời ông nhắc con- cũng là tự nhắc mình “Ủng hộ Hồ Chí Minh”. Tình quê và lòng yêu nước của những người nông dân ấy rất sâu nặng và thiêng liêng biết bao. Ông hai đã trải qua những buồn vui, đau khổ, những tự hào, chua chát, những nguyện vọng và hy vọng… hài hòa , gắn bó giữa quê hương và tổ quốc.

Trong cuộc kháng chiến gian khổ ấy thì cách mạng đã đổi đời cho những người nhân dân như ông, ông nguyện đi theo và trung thành với cách mạng. Gạt sang một bên tình cảm riêng của mình mà đi theo kháng chiến, không chịu theo Tây, sống với Tây. Tình cảm gắn bó với cách mạng , với Bác Hồ của những người nông dân như ông nó chất phác, mộc mạc, sâu sắc, nó xuất phát từ đáy lòng, máu thịt.

Thấy được tình yêu làng, yêu nước của ông hai, ta hiểu và cũng mừng cho sự hớn hở của ông hai khi nghe tin làng mình theo Tây được cải chính. Tình yêu làng , tình yêu nước lại trở về gắn bó với nhau ngày càng sâu sắc, thắm thiết hơn trong lòng người nông dân chân chất này. Từ ngày ông hai không phải dằn vặt trong sự lựa chọn khắc nghiệt giữa làng và nước, cái vui của ông hai là cái vui của một con người yêu quê hương, đất nước sâu sắc. niềm vui khiến ông lão như trẻ con” lật đật,bô bô” kể về làng mình bị đốt nhẵn. Nhà của ông bị cháy rụi mà ông không để í, không đau buồn, ông chỉ biết rằng lúc này ông làm kháng chiến và ông lão bây giờ có thể tự hào, hãnh diện ngồi kể về cái làng chợ dầu kháng chiến của mình.

Vốn là những con người chân thực, chất phác, những ngày đầu tiếp xúc với cách mạng họ vẫn có sự bỡ ngỡ và lạ lẫm ban đầu. Cảm giác ấy nhanh chóng tan đi , người ông dân đón nhận cách mạng với một tình cảm chân thành một lòng hăm hở. Cuộc đời nông dân Việt Nam rẽ sang một bước ngoặt mới tươi sáng hơn. Họ nô nức, háo hức hòa chung vào phong trào cách mạng cả nước, họ hăng hái cầm súng bảo vệ quê hương. Cách mạng trở thành một phần máu thịt của người nông dân, có những người như ông hai day dứt, tủi hổ, khổ sợ khi mình bị hiểu lầm là không trung thành với cách mạng song vẫn không bỏ cách mạng. Đó là lòng trung thành, là tình cảm sâu sắc, bền chặt mà người nông dân dành cho cách mạng.

Cách mạng Tháng Tám đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh trong lòng họ. người nông dân đứng lên kiên quyết giữ làng, giữ nước , đâu còn là hình ảnh con người khổ nhục,khiếp sợ từ tên đầy tớ nhà giàu. Họ- những người như ông hai đứng lên đào hào, đắp luỹ trực tiếp chống lại quân thù . Lòng yêu nước nồng nàn, sự trung thành với cách mạng tất cả trở thành sức mạnh khiến họ đứng lên bảo vệ quê hương, bảo vệ chính mình. Cách mạng mang đến cho họ cuộc đời mới, họ phải bảo vệ lấy hạnh phúc đó của mình.

Bài viết số 6 lớp 9 đề 2 – Mẫu 4

“Làng quê”, hai tiếng thật êm đềm và thân thuộc biết bao. Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ hướng ngòi bút của mình về giếng nước, gốc đa, con đò… hướng về những người nông dân thật thà, chất phác. Kim Lân là một trong những nhà văn viết truyện ngắn và khai thác rất thành công về đề tài này. Truyện ngắn “Làng” là một truyện ngắn thành công của Kim Lân gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp.

Kim Lân vốn am hiểu và gắn bó sâu sắc với cuộc sống và con người ở nông thôn Việt Nam nên các truyện ngắn của ông thường gây ấn tượng độc đáo, rất giản dị, chân chất về đề tài này. Truyện ngắn Làng cũng vậy, truyện ra đời trong những năm đầu của cuộc kháng chiến p và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc. Câu chuyện xoay quanh nhân vật ông Hai và tình yêu làng Chợ Dầu. Với những chuyển biến trong nhận thức và suy nghĩ, ông Hai đã trở thành một điển hình của người nông dân Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.

Như bao con người Việt Nam khác, ông Hai cũng có một quê hương yêu thương, gắn bó. Làng Chợ Dầu luôn là niềm tự hào và là kiêu hãnh của ông. Ông luôn khoe về làng mình, đức tính ấy như đã trở thành bản chất. Ông cũng như mọi người nông dân Việt Nam khác, có quan niệm rằng “Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, đối với họ, không có bất cứ đâu đẹp hơn nơi chôn rau cắt rốn của mình. Trước cách mạng, mỗi khi kể về làng, ông đều khoe về cái sinh phần của viên tổng đốc sừng sững ở cuối làng. Sau Cách mạng, làng ông đã trở thành làng kháng chiến, ông đã có nhận thức khác. Ông Hai không còn khoe về cái sinh phần ấy nữa mà ông lấy làm hãnh diện với sự cách mạng của quê hương, về việc xây dựng làng kháng chiến của quê mình. Ông khoe làng có “những hố, những ụ, những giao thông hào”, “có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”… Kháng chiến bùng nổ, ông Hai bất đắc dĩ phải rời làng đi tản cư. Trong những ngày buộc phải rời xa làng tâm trí ông luôn nhớ về nơi ấy, về những anh em đồng chí của mình, ông muốn “cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào,khuân đá…’’.

Ở nơi tản cư, ông luôn đến phòng thông tin để theo dõi và mong ngóng tin tức về làng nhằm nguôi ngoai nỗi nhớ. Trong lúc mong tin làng, những tin vui chiến thắng ở khắp nơi khiến ông vui sướng vô cùng, “ruột gan cứ múa cả lên”. Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc từ người đàn bà đi tản cư, ông Hai vô cùng sửng sốt, “cổ họng ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được” . Đến khi nghe kể rành rọt, không thể không tin vào điều xấu ấy, niềm tin và tình yêu bấy lâu nay của ông về làng như sụp đổ. Ông đã “gầm mặt xuống”, đánh trống lảng rồi bước đi như kẻ trốn nợ. Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người nhưng lại không tin họ theo giặc. Mấy hôm liền, ông không dám đi đâu vì xấu hổ, luôn bị ám ảnh cái tinh khủng khiếp ấy và hay hốt hoảng giật mình. Những ngày này mâu thuẫn nội tâm trong con người ông Hai diễn ra một cách quyết liệt và ngày càng dâng cao. Đã có lúc ông nghĩ đến việc “quay về làng” nhưng ông đã dứt khoát “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”, “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tuy quyết định như thế nhưng ông vẫn rất đau đớn xót xa. Tất cả những cử chỉ của ông Hai khẳng định tình yêu làng của ông đã hòa quyện vào cuộc kháng chiến của dân tộc và ông sẽ gắn bó cả cuộc đời với nó bằng suy nghĩ và hành động. Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông trút nỗi lòng vào lời nói với đứa con út ngây thơ: “Bố con mình theo kháng chiến, theo Cụ Hồ con nhỉ?” để giãi bày tâm sự, trút bỏ, an ủi lòng mình. Đồng thời, ông cũng truyền cả tình yêu nước sang cho con mình và khẳng định tình cảm của bố con ông với kháng chiến, với Cụ Hồ là trước sau như một.

Đau khổ là thế, lo âu là thế nhưng cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã được cải chính. Niềm vui trong ông Hai như vỡ òa. Ông chạy đi khoe ngay với bác Thứ rồi gặp bất cứ ai ông cũng khoe Tây đã đốt nhà mình như muốn chứng minh làng mình không theo giặc với tất cả niềm tin và tình cảm của ông. Đối với ông hai cũng như mọi người nông dân khác, con trâu, mảnh ruộng, gian nhà là vô cùng quý giá nhưng họ thà mất đi tất cả chứ không chịu mất nước và ý chí ý đã trở thành một truyền thống vô cùng tốt đẹp của dân tộc ta.

Cách mạng và sự nghiệp kháng chiến đã tác động mạnh mẽ, đem lại những nhận thức, những tình cảm mới lạ cho những người nông dân. Từ đó khiến họ nhiệt tình tham gia kháng chiến và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng, vào lãnh tụ. Ở nhân vật ông Hai, tình cảm đẹp đẽ có tính chất truyền thống của người nông dân Việt Nam là tình yêu làng quê đã được nâng lên thành tình yêu nước. Sự hòa quyện và gắn bó của tình yêu quê hương và tình yêu đất nước là nét mới mẻ trong nhận thức của người nông dân, của quần chúng cách mạng trong giai đoạn văn học.

Với kết cấu đơn giản, xoay quanh nhân vật ông Hai với tình yêu làng sâu sắc, “Làng” đã để lại trong lòng người đọc nhiều ý vị sâu sắc. Làng Nhà văn Kim Lân đã xây dựng rất thành công nhân vật ông Hai với các phẩm chất tốt đẹp của người nông dân. Đồng thời nhà văn còn khôn khéo xây dựng tình huống thử thách làm bộc lộ chiều sâu tâm trạng của nhân vật. Tác giả đã miêu tả đặc biệt tài tình nội tâm của nhân vật với những suy nghĩ phức tạp, giằng xé. Tác giả đẩy các chi tiết đến cao trào rồi giải quyết một cách nhẹ nhàng, thỏa đáng và có hậu, tạo hứng thú và bất ngờ cho người đọc, người nghe. Cách sử dụng từ ngữ địa phương mộc mạc, gần gũi với nông dân trong đối thoại, giao tiếp kết hợp với sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của họ khiến những trang viết của Kim Lân thật gần gũi nhưng không kém phần sâu sắc.

Nhân vật ông Hai gây ấn tượng mạnh mẽ và để lại nhiều tình cảm tốt đẹp, sự yêu mến, trân trọng và cảm phục trong lòng người đọc. Tình yêu làng của ông Hai mang tinh chất truyền thống đã được nâng lên thành tình yêu nước nồng nàn như “ dòng suối đổ vào sông, dòng sông đổ vào dải trường giang Vônga, dòng sông Vôn Ga đi ra biển..”. Qua nhân vật ông Hai như là nông dân với những phẩm chất tốt đẹp bước từ đời thực vào tác phẩm, có được những biểu hiện cụ thể, sinh động về tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc.

“Làng” đã trở thành một truyện ngắn đặc sắc, Kim Lân đã thành công trong việc thể hiện những chuyển biến mới mẻ trong nhận thức và tình cảm của người dân Việt Nam. Nhân vật ông Hai đã trở thành một hình tượng điển hình cho những người nông dân Việt Nam cần cù, chất phác nhưng luôn cháy bỏng tình yêu quê hương, yêu đất nước. Họ đã góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng và là nhân tố trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Bản thân mỗi chúng ta cần phải học tập tấm gương của họ, ngày càng yêu thương quê hương, đất nước mình hơn.

………………

Văn Mẫu Lớp 6: Tóm Tắt Bài Thánh Gióng (13 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Lớp 6 Hay Nhất

Truyền thuyết Thánh Gióng đã vô cùng nổi tiếng và quen thuộc đối với người dân Việt Nam. Tác phẩm được tìm hiểu trong chương trình môn Ngữ Văn lớp 6.

Tóm tắt truyền thuyết Thánh Gióng

Hôm nay, chúng tôi xin giới thiệu Bài văn mẫu lớp 6: Tóm tắt truyện Thánh Gióng, bao gồm 13 mẫu, rất hữu ích để giúp học sinh năm vững nội dung của tác phẩm này. Mời tham khảo nội dung chi tiết ngay sau đây.

Thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng, có vợ chồng rất chăm chỉ làm ăn lại hiền lành, tốt bụng. Một lần, người vợ ra đồng, thấy một vết chân rất to hơn vết chân người thường, liền ướm thử. Không ngờ về nhà bà thụ thai, rồi sau mười hai tháng thai nghén, bà sinh ra một em bé. Hai vợ chồng mừng lắm, nhưng chú bé lên ba tuổi vẫn chưa biết nói biết cười. Lúc bấy giờ, giặc Ân đến xâm lược nước ta. Nhà vua sai người đi khắp nơi để tìm người tài. Đến làng Gióng, khi nghe thấy tiếng sứ giả, cậu bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây, con xin thưa chuyện”. Sứ giả vào, cậu liền xin với sứ giả về tâu với vua sắm cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt với lời hứa sẽ đánh tan lũ giặc này. Sau hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ, phải nhờ đến dân làng. Bà con vui lòng góp gạo thóc để nuôi chú bé, ai cũng mong chú giết giặc cứu nước. Giặc đến, vừa lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến, cậu bé vươn vai biến thành tráng sĩ đánh giặc. Giặc chết như ngả rạ. Bỗng roi sắt gãy, tráng sĩ liền nhổ bụi tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau mà trốn thoát. Sau đó, tráng sĩ một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp rồi bay về trời. Vua cho lập đền thờ để tưởng nhớ công ơn, còn phong làm Phù Đổng Thiên Vương. Hiện nay, vẫn còn đền thờ làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Tương truyền, những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn bảo khi ngựa thét ra lửa đã thiêu cháy một làng, về sau gọi là làng Cháy.

Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức nhưng mãi vẫn chưa có nổi một mụn con. Một hôm, bà vợ đi ra đồng trông thấy một vết chân rất to liền đặt bàn chân mình lên ướm thử, không ngờ về nhà liền mang thai. Mười hai tháng sau, bà sinh ra được một cậu con trai. Cậu bé lên ba tuổi mà vẫn không biết nói biết cười. Lúc bấy giờ, giặc Ân đến xâm lược nước ta, nhà vua muốn tìm người tài đánh giặc cứu nước. Sứ giả đi đến làng Gióng thì kì lạ thay, cậu bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ mời sứ giả vào đây”. Cậu bảo sứ giả về tâu với vua sắm cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt để đánh giặc. Từ sau hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Giặc đến, vừa lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến, cậu bé vươn vai biến thành tráng sĩ đánh tan quân giặc. Tráng sĩ đánh giặc xong cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay về trời. Vua nhớ công ơn tôn là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà.

Truyền thuyết “Thánh Gióng” kể về một cậu bé làng Gióng. Vào đời Hùng Vương thứ sáu, có hai vợ chồng ăn ở hiền lành mà vẫn chưa có được một mụn con. Một lần, bà vợ đi ra đồng thì nhìn thấy một vết chân rất to liền ướm thử, về nhà liền mang thai. Mười hai tháng sau, bà sinh ra một câu con trai. Cậu bé tuy đã lên ba tuổi mà vẫn không biết nói, biết cười. Ít lâu sau, giặc Ân đến xâm lược nước ta. Nhà vua muốn tìm người tài đánh giặc cứu nước. Sứ giả đi đến làng Gióng thì kì lạ thay, cậu bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ mời sứ giả vào đây”. Cậu yêu cầu sứ giả về tâu với vua sắm cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt để đánh giặc. Từ sau hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Giặc đến nơi cũng vừa lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến, cậu bé vươn vai biến thành tráng sĩ đánh tan quân giặc. Tráng sĩ đánh giặc xong cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời. Vua nhớ công ơn tôn là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà.

Thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng nọ dù ăn ở hiền lành nhưng vẫn chưa có con. Một hôm, người vợ ra đồng nhìn thấy một vết chân thì ướm thử. Về nhà, bà có mang và sinh ra một câu bé. Lên ba tuổi mà cậu vẫn chưa biết nói. Lúc bấy giờ, giặc Ân đến xâm lược, vua cho đi khắp nước tìm người tài. Đến làng Gióng thì kì lạ thay, cậu bé bỗng cất tiếng nói bảo mẹ mời sứ giả vào nhà. Cậu yêu cầu sứ giả về tâu vua sắm cho cậu một con ngựa sắt, một bộ áo giáp sắt, một cái roi sắt với lời hứa sẽ đánh tan quân giặc. Giặc vừa đến chân núi cũng là lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bỗng vươn vai trở thành tráng sĩ và đánh bại giặc Ân. Vua Hùng nhớ công ơn liền phong là Phù Đổng Thiên Vương.

Ở một làng nọ, có hai vợ chồng ông hiền lành mà vẫn chưa có nổi một mụn con. Một lần nọ, người vợ ra đồng, nhìn thấy một vết chân rất to liền ướm thử, về nhà liền mang thai. Mười hai tháng sau, bà sinh ra một câu con trai. Cậu bé tuy đã lên ba tuổi mà vẫn không biết nói, biết cười. Ít lâu sau, giặc Ân đến xâm lược nước ta. Nhà vua muốn tìm người tài đánh giặc cứu nước. Sứ giả đi đến làng Gióng thì kì lạ thay, cậu bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ mời sứ giả vào đây”. Cậu yêu cầu sứ giả về tâu với vua sắm cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt để đánh giặc. Từ sau hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Giặc đến nơi cũng vừa lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến, cậu bé vươn vai biến thành tráng sĩ đánh tan quân giặc. Tráng sĩ đánh giặc xong cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời. Để tưởng nhớ công ơn của Thánh Gióng, vua cho lập đền thờ ở quê nhà và phong là Phù Đổng Thiên Vương.

Đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng nọ. Tuy làm ăn chăm chỉ, lại có tiếng là phúc đức nhưng mãi không có con. Một hôm, bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân lạ, về nhà bà thụ thai. Bà mang thai mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé. Nhưng kì lạ thay, cậu bé lên ba mà vẫn không biết nói biết cười. Bấy giờ, giặc Ân tràn vào bờ cõi nước ta. Thế giặc rất mạnh. Vua Hùng bèn sai người đi tìm người tài giúp nước. Khi nghe tiếng của sứ giả, cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đánh giặc. Từ đấy cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng chẳng no. Cậu bé vươn vai thành tráng sĩ, rồi mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt và cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gãy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên đường để quét sạch giặc thù. Khi giặc tan, Gióng một mình một ngựa lên đỉnh núi Sóc Sơn rồi bay thẳng về trời. Nhân dân lập đền thờ để tưởng nhớ công ơn. Ngày nay vẫn còn lại những dấu tích xưa.

Thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng chăm chỉ nhưng vẫn chưa có con. Một lần nọ, người vợ đi ra đồng trông thấy một vết chân rất to liền đặt bàn chân mình lên ướm thử, về nhà thì mang thai. Mười hai tháng sau, bà sinh ra được một cậu con trai. Lên ba tuổi nhưng cậu bé vẫn không biết nói biết cười. Giặc Ân đến xâm lược nước ta. Nhà vua sai người đi khắp nơi để tìm người tài. Nghe thấy tiếng sứ giả, cậu bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ mời sứ giả vào đây”. Cậu nói với sứ giả về tâu với vua sắm cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt để đánh giặc. Từ sau hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Giặc đến, vừa lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến, cậu bé vươn vai biến thành tráng sĩ đánh tan quân giặc. Tráng sĩ một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp rồi bay về trời. Vua Hùng tưởng nhớ công ơn nên đã cho lập đền thờ. Ngày nay, chúng ta thấy vẫn còn những dấu vết xưa.

Vào thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão hiền lành, phúc đức nhưng vẫn chưa có một mụn con. Một hôm, bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân lạ, về nhà thì mang thai. Mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé khôi ngôi, tuấn tú. Cậu bé lên ba mà vẫn không biết nói biết cười. Bấy giờ, giặc Ân sang xâm lược nước ta. Vua Hùng sai sứ giả đi tìm người tài giúp nước. Đến làng Gióng, cậu bé nghe thấy tiếng của sứ giả thì cất tiếng nói xin được đánh giặc. Kể từ đó, cậu bé bỗng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng chẳng no, áo mặc mấy cũng không vừa. Dân làng phải góp công nuôi lớn. Giặc đánh đến nơi, cậu bé bỗng vươn vai thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt và cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gãy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên đường để quét sạch giặc thù. Giặc tan, tráng sĩ một mình một ngựa lên đỉnh núi Sóc Sơn rồi bay thẳng về trời. Nhân dân lập đền thờ để tưởng nhớ công ơn.

Đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng nông dân. Họ chăm chỉ, hiền lành mà vẫn chưa có con. Một lần, người vợ ra đồng, thấy một vết chân lạ liền ướm thử. Về nhà, bà mang thai. Mười hai tháng sau mới sinh ra một cậu bé, nhưng lên ba tuổi mà cậu vẫn chưa biết nói biết cười. Bấy giờ, giặc Ân sang xâm lược nước ta. Nhà vua muốn tìm người tài ra giúp nước. Đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng của sứ giả liền nói với mẹ mời sứ giả vào. Cậu nói với sứ giả về tâu với vua sắm cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt để đánh giặc. Kể từ hôm đó, Gióng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn không no, áo mặc chẳng vừa. Dân làng phải góp gạo nuôi cậu. Giặc đánh đến nơi, cũng là lúc nhà vua cho người mang áo sắt, roi sắt, ngựa sắt tới. Gióng bỗng chốc vươn vai thành tráng sĩ. Tráng sĩ đánh tan quân giặc, sau đó một mình một ngựa lên đỉnh núi Sóc Sơn rồi bay thẳng về trời. Vua Hùng cho lập đền thờ để tưởng nhớ công ơn. Đến nay vẫn còn lưu lại nhiều dấu tích xưa.

Ngày xưa, vào thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng nghèo. Họ chăm chỉ, hiền lành mà vẫn chưa có con. Một hôm nọ, người vợ ra đồng thì nhìn thấy một vết chân lạ. Bà đặt chân vào ướm thử, về nhà mang thai đến mươi hai tháng mới sinh ra một cậu con trai. Cậu bé lên ba tuổi vẫn chưa biết nói biết cười. Bấy giờ, giặc Ân sang xâm lược nước ta. Nhà vua muốn tìm ra người tài để giúp nước, liền sai sứ giả đi khắp nơi. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bảo với mẹ mời sứ giả vào để xin đi đánh giặc. Cậu bé liền nói với sứ giả rằng hãy về tâu nhà vua rèn cho một con ngựa sắt, một chiếc áo giáp sắt và một thanh gươm sắt. Từ đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, người dân trong làng phải góp công nuôi lớn. Quân giặc đánh đến nơi cũng là lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Gióng vươn vai thành tráng sĩ, đánh tan quân giặc. Giặc tan, tráng sĩ một mình một ngựa lên đỉnh núi Sóc Sơn rồi bay thẳng về trời. Vua Hùng cho lập đền thờ để tưởng nhớ công ơn.

Xưa ở làng Gióng có hai vợ chồng hiền lành, phúc đức mà vẫn chưa có một mụn con. Vào một lần, bà vợ đi ra đồng, thì nhìn thấy một vết chân lạ liền ướm thử. Về nhà bà mang thai. Đến mười hai tháng sau mới sinh ra được một cậu bé. Nhưng cậu lên ba tuổi vẫn chưa biết nói biết cười. Lúc bấy giờ, giặc Ân sang xâm lược nước ta. Vua Hùng muốn tìm người tài giúp nước liền sai sứ giả đi khắp nơi. Đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng của sứ giả liền nói với mẹ mời sứ giả vào. Cậu nói với sứ giả về tâu với vua sắm cho một con ngựa sắt, một cái gươm sắt và một tấm áo giáp sắt để đánh giặc. Từ hôm đó trở đi, cậu bé lớn nhanh như thổi, người dân trong làng phải góp gạo nuôi lớn. Quân giặc đánh đến nơi, cậu bỗng chốc vươn vai thành tráng sĩ. Tráng sĩ đánh tan quân giặc, sau đó một mình một ngựa lên đỉnh núi Sóc Sơn rồi bay thẳng về trời. Nhà vua nhớ công ơn tôn là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà.

Lúc bấy giờ là thời Hùng Vương thứ sáu. Ở làng Gióng có hai vợ chồng nông dân hiền lành, chăm chỉ. Nhưng họ vẫn chưa có con. Một hôm, người vợ ra đồng thì trông thấy một vết chân, liền ướm thử. Về đến nhà, bà mang thai. Mười hai tháng sau, bà sinh ra được một cậu con trai. Cậu bé lên ba tuổi vẫn chưa biết nói biết cười. Thuở ấy, giặc Ân đến xâm lược nước ta. Nhà vua sai người đi khắp nơi để tìm người tài. Đến làng Gióng, khi nghe thấy tiếng sứ giả, cậu bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ hãy mời sứ giả vào đây”. Cậu nói với sứ giả về tâu với vua sắm cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt để đánh giặc. Kể từ đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Bà con trong cùng góp gạo để nuôi Gióng. Giặc đến, vừa lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến, cậu bé vươn vai biến thành tráng sĩ đánh tan quân giặc. Sau đó, tráng sĩ một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp rồi bay về trời. Để tưởng nhớ công ơn, nhà vua nên đã cho lập đền thờ.

Tục truyền, thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng có hai vợ chồng ông hiền lành, chăm chỉ nhưng chưa có con. Một hôm, bà ra đồng trông thấy một vết chân to, liền đặt bàn chân của mình lên ướm thử, về nhà thì mang thai. Mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé khôi ngôi, tuấn tú. Cậu bé lên ba mà vẫn không biết nói biết cười, cũng chẳng biết đi, ai đặt đâu thì nằm đấy. Lúc bấy giờ, giặc Ân sang xâm lược nước ta. Vua Hùng sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp nước. Đến làng Gióng, đứa bé nghe tin, bỗng cất tiếng nói. Cậu yêu cầu rèn một con ngựa sắt, một chiếc áo giáp sắt và một cái roi sắt để phá tan lũ giặc. Kì lạ, kể từ đó, cậu bé bỗng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng chẳng no, áo mặc mấy cũng không vừa. Dân làng cùng góp gạo nuôi lớn. Giặc đánh đến nơi, cậu bé bỗng vươn vai thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt và cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gãy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên đường để quét sạch giặc thù. Giặc tan, tráng sĩ một mình một ngựa lên đỉnh núi Sóc Sơn rồi bay thẳng về trời.

Văn Mẫu Lớp 9: Phân Tích Khổ Cuối Bài Sang Thu Của Hữu Thỉnh 2 Dàn Ý & 5 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất

Bài thơ Sang thu còn cho thấy rõ sự chuyển đổi của trời đất từ hạ sang thu, cùng những triết lý sâu xa của tác giả về mùa thu, về cuộc đời. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết để có thêm thật nhiều ý tưởng mới, ngày càng học tốt môn Văn 9:

Đề bài: Em hãy phân tích khổ cuối bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh để cảm nhận rõ cái nhìn và suy ngẫm của ông về cảnh vật khi sắc trời sang thu.

1. Mở bài

Giới thiệu đề tài mùa thu trong thi ca

Dẫn vào bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh: Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ: nhịp nhàng, khoan thai, êm ái, trầm lắng và thoáng chút suy tư… thể hiện một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.

2. Thân bài

Là hình ảnh thiên nhiên sang thu qua các hình ảnh cụ thể: nắng, mưa

Nắng là hình ảnh cụ thể của mùa hạ. Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đã nhạt dần, yếu dần bởi gió se đã đến chứ không chói chang, dữ dội, gây gắt như đầu tháng 5,6

Mưa: những cơn mưa cũng đã ít dần qua từ “vơi” gợi sự thưa thớt ít dần không còn sối xả, ầm ầm như những cơn mưa mùa hạ nữa

Hình ảnh ẩn dụ:

Sấm thương gắn liền với những cơn mưa mùa hạ, lúc chuyển mùa giữa hạ và thu sấm rất ít xuất hiện

Sấm hình ảnh ẩn dụ những tiếng vang của ngoại cảnh, của cuộc đời

Hàng cây đứng tuổi chỉ những con người từng trải, những con người trải qua những khó khăn của cuộc đời khiến họ vững vàng hơn

3. Kết bài

Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc cảm nhận mới về mùa thu của quê hương

Làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong lòng người đọc

a) Mở bài

Advertisement

Giới thiệu vài nét về tác giả Hữu Thỉnh.

Giới thiệu khái quát bài thơ Sang thu.

Dẫn dắt vấn đề và trích dẫn đoạn thơ cuối bài:

b) Thân bài

* Khái quát lại nội dung bài thơ

– Bài thơ Sang thu chính là cảm nhận tinh tế của nhà thơ Hữu Thỉnh về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu, một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.

– Mạch nội dung của bài thơ gồm 3 phần:

Cảm nhận tinh tế của nhà thơ về tín hiệu sang thu (khổ thơ đầu)

Những chuyển biến tinh tế của đất trời lúc thu sang (khổ thơ thứ 2)

Những tâm tư, suy ngẫm của tác giả (khổ thơ cuối)

* Phân tích khổ thơ cuối Sang thu

– Luận điểm 1: Cảm nhận thực của tác giả trước khoảnh khắc chuyển mình giữa 2 mùa.

Nắng: hình ảnh cụ thể của mùa hạ. Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đã nhạt dần, yếu dần bởi gió se đã đến chứ không chói chang, dữ dội, gây gắt.

Mưa: đã ít đi. Cơn mưa mùa hạ thường bất ngờ chợt đến rồi lại chợt đi. Từ “vơi” có giá trị gợi tả, diễn tả cái thưa dần, ít dần, hết dần những cơn mưa rào ào ạt, bất ngờ của mùa hạ.

– Luận điểm 2: Suy ngẫm, triết lí cuộc sống về mùa thu của đời người.

+ Hình ảnh ẩn dụ “sấm”:

Nghĩa ẩn dụ: Những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời

+ Hình ảnh ẩn dụ “Hàng cây đứng tuổi”

Nghĩa thực: hình ảnh tả thực của tự nhiên về những cây cổ thụ lâu năm.

Nghĩa ẩn dụ: thế hệ những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc đời.

* Đánh giá đặc sắc nghệ thuật

Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ

Sử dụng tính từ chỉ trạng thái, mức độ

Hình ảnh chân thực.

c) Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật khổ thơ.

Cảm nhận của em về khổ thơ.

Cái nắng gắt của mùa hạ qua đi nhường chỗ cho sự êm ái của mùa thu sự dịu dàng dễ chịu ấy làm cho cong người trào dâng bao cảm xúc. Chính sự chuyển mùa giữa hai mùa ấy thật nhẹ nhàng và ngập ngừng như lưu luyến, vấn vương một cái gì đó của thời đã qua. Khoảnh khắc ấy thật đẹp, nhưng không phải ai cũng dễ dàng nhận thấy. Riêng nhà thơ Hữu Thỉnh lại khác ông có cái nhìn thật tinh tường một cảm nhận thật sắc nét và một cách sống hòa hợp với thiên nhiên nên mới có thể vẽ lại bức tranh in dấu sự chuyển mình của đất trời qua bài thơ “Sang Thu” – linh hồn của cả bài thơ chỉ vẻn vẹn trong hai từ thế thôi, song ý nghĩa sâu sắc chất chứa trong hai từ ngắn ngủi ấy lại không hề ít. Và có lẽ những ý nghĩa đó, lại tập trung nhiều hơn vào khổ thơ cuối bài:

Mở đầu khổ thơ vẫn là nắng và mưa của mùa hạ đấy thôi, nhưng chỉ là “vẫn còn” và “vơi dần”, tất cả ngày một nhạt đi, chứ không như cái nắng gay gắt, chói chang cùng cơn mưa rào, xối xả của một mùa hạ sôi động nữa. Dường như vẫn còn luyến tiếc lắm, nhưng cuối cùng hạ vẫn phải chấp nhận rằng: “thu sang” và hạ phải đến một chân trời khác. Bằng nghệ thuật ẩn dụ sâu sắc, Hữu Thỉnh đã kết thúc khổ thơ qua hai câu văn thấm đẫm triết lý đáng để ta phải suy ngẫm:

“Sấm” – đơn thuần là một hiện tượng đặc trưng của mùa hạ khi trước và sau cơn mưa lớn, “cây đứng tuổi” – theo nghĩa dễ hiểu nhất thì đó chỉ là những cái cây đã nhiều tuổi vì sống lâu năm. Nhưng điều mà Hữu Thỉnh muốn gửi đến chúng ta đâu chỉ là những điều giản đơn đến thế, mà “sấm” ở đây cũng được xem là những thăng trầm, sóng gió của vòng đời luôn thay đổi và qua những gian nan, thử thách ấy, con người cũng sẽ đổi thay một cách mạnh mẽ hơn và vững vàng hơn.

Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” – tức chỉ người từng trải, những con người đã nếm được hết mùi vị ngọt ngào, cay đắng, mặn mà hay chua chát của cuộc sống, và tất nhiên khi họ đã trải nghiệm qua những khó khăn đó, thì giờ đây sẽ không phải rơi vào tình thế xao động hay lung lay trước những biến cố của vòng xoáy cuộc đời nữa. Nhìn sâu hơn qua hai câu thơ trên, Hữu Thỉnh cũng muốn nói lên sức mạnh của dân tộc Việt Nam thật kiên cường và bất khuất, thật dũng cảm và mạnh mẽ chống lại bọn giặc ngoài xâm để gửi trọn niềm tin yêu đến Tổ quốc, quê hương và bảo vệ bờ cõi nước nhà.

Từ bao nỗi suy tư của mình, Hữu Thỉnh đã góp phần làm cho cả bài thơ và khổ thơ cuối thêm nhiều ý nghĩa sâu sắc, in dấu trong lòng người đọc một ấn tượng khó phai mờ về một mùa thu tha thiết, nồng hậu và cả mùa hạ sôi động của dĩ vãng nữa. Cũng chính vì lẽ đó, mà ta cảm thấy yêu thiên nhiên hơn, yếu cái giao mùa và sự chuyển biến của đất trời trên quê hương mình, cũng như yêu vòng tuần hoàn máu chạy khắp cơ thể qua chính con tim này.

Cuối hạ đầu thu luôn là những khoảnh khắc lòng người đong đầy cảm xúc lẫn lộn. Đó là những chơi vơi nhưng xuyến xao và chút âu lo vấn vương. Mỗi phút giây qua đi dù là mỏng manh nhưng cũng dư âm dư tình đến luyến lưu. Dòng cảm xúc bất tận ấy được Hữu Thỉnh bắt trọn và phô diễn dưới ngòi bút tài hoa:

Vẫn là những tia nắng những hạt mưa tinh nghịch của mùa hạ nhưng chỉ là “vẫn còn”, “vơi dần”. Những trưa nắng oi ả, gay gắt hay những trận mưa bất chợt, ào ào của mùa hạ bây giờ chỉ còn phảng phất, rải rác. Dường như mùa hạ vẫn đang vấn vương điều chi, vẫn muốn lưu lại chút hương sắc của mình với đất trời tạo hóa. Như để lại chút thương chút nhớ hạ gieo vào lòng đất một chút mưa cuối mùa ngọt ngào, một chút nắng nhẹ nhàng. Nhưng dù có níu kéo thì hiện thực vẫn cứ thể chảy trôi, thời gian vẫn cứ tuần hoàn dù chẳng đành lòng nhưng hạ vẫn phải chấp nhận rời xa để nhường chỗ cho thu sang. Thu sang mang khoác cho cảnh vật cho thiên nhiên những khí sắc mới, đặc trưng riêng biệt:

Sấm là hiện tượng tự nhiên của thời tiết. Sấm thường xuất hiện sau những cơn mưa giông, cơn mưa rào vào mùa hạ. Hàng cây đứng tuổi là chỉ những cây cổ thụ lâu năm. Đây là một hình ảnh tả thực của tự nhiên. Sau những cơn mưa rào thì sấm hay xuất hiện gần những cây có tán lá rộng, to – thường là những cây cổ thụ. Khi bước sang thu sấm đã chẳng còn tinh nghịch như thế nữa mà đã vơi bớt dần bởi nó biết mùa thu là mùa của yêu thương, của những nhẹ nhàng dịu êm. Thế nhưng có lẽ cái ẩn ý mà Hữu Thỉnh muốn gửi gắm có lẽ chẳng dừng lại ở đó. Ẩn sau cái lớp nghĩa thực kia là một chuỗi những suy tư lắng sâu. Sấm, mưa biểu trưng cho những giông bão, khó khăn. Ở đây tác giả dùng hàng cây chứ không dùng cây – gợi sự liên kết, gắn bó. Hàng cây đứng tuổi là hình ảnh ẩn dụ chỉ cả một thế hệ, đó là những con người đã đi qua hết nửa cuộc đời, đã nếm trải những đắng cay ngọt ngào của dòng đời xô bồ. Chính những từng trải ấy đã khiến họ trở nên kiên cường, mạnh mẽ, biết cách đối mặt với giông tố, khó khăn, không còn lung lay, xao động trước những cơn “sấm” ồn ã. Gửi cái nhìn xa xăm hơn nữa, Hữu Thỉnh muốn hướng đến tình yêu Tổ quốc thiết tha, ông bày tỏ thái độ ngưỡng mộ, ngợi ca sức mạnh dũng cảm, kiên trung bất khuất, đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong suốt những năm tháng chiến đấu gian khổ bảo vệ nền độc lập, tự do, hòa bình cho dân tộc.

Trong ý thơ trên còn có mang đậm một quan điểm nhân sinh sâu sắc, cũng giống như mùa thu bình yên và lặng lẽ, con người ta khi đã đến cái tuổi xế chiều, khi đã trải qua những năm tháng bão giông sẽ chẳng còn những bồng bột, thật bình thản và nhẹ nhàng để cảm nhận và suy tư.

Chỉ với những câu thơ ngắn gọn, từ ngữ dân dã, giản dị bằng cái chất cái hồn lãng mạn của mình Hữu Thỉnh đã vẽ ra một bức tranh thu độc đáo. Cái hồn quê chân chất cái mùi của đất của thiên nhiên như mở ra sau mỗi vần thơ tinh tế nhẹ nhàng và lắng sâu. Lòng người vì thế cũng như trải dài ra, nao nao đến từng phút giây. Hình ảnh quê hương đất nước thật đẹp, thật yên bình và đầy dư vị.

Nhà thơ Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1963, Hữu Thỉnh nhập ngũ, vào binh chủng Tăng – Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa, tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ. Ông là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa III, IV, V. Từ năm 2000, Hữu Thỉnh giữ chức vụ Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.

Hữu Thỉnh là nhà thơ đi nhiều, viết nhiều và có một số bài thơ đặc sắc về con người cùng cuộc sống ở nông thôn. Bài thơ Sang thu được sáng tác vào cuối năm 1977, in lần đầu tiên trên báo Văn nghệ. Nội dung thể hiện tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến của nhà thơ trước những chuyển biến tinh tế của trời đất và là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của nông thôn đồng bằng Bắc bộ lúc giao mùa từ hạ sang thu. Và cảm nhận của ông khi tiết trời sang thu được thể hiện rõ nét nhất ở khổ thơ cuối:

Mở đầu Hữu Thỉnh cảm nhận mùa thu bằng tất cả con người mình, tâm hồn mình. Bắt đầu là khứu giác: Bỗng nhận ra hương ổi, Phả vào trong gió se. Cảm giác giao mùa được ông diễn tả bằng một hình ảnh bất ngờ đầy thi vị: Có đám mây mùa hạ, Vắt nửa mình sang thu. Đây là hình ảnh đặc sắc miêu tả cảnh mùa hạ chưa qua hẳn nhưng mùa thu đã tới. Nhưng tiếp đó chính là cảm nhận của chính ông khi nắng cuối hạ vẫn còn nhưng đã bớt đi cái nồng nàn, rực rỡ vốn có, kèm theo đó là những cơn mưa rào ào ạt cũng đã thưa dần:

Nhà thơ thể hiện cảm xúc của mình rất thành công bằng những từ ngữ diễn tả cảm giác, trạng thái: bỗng, phả vào, chùng chình, hình như; dềnh dàng, vắt nửa mình… Cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ của trời đất lúc vào thu được tác giả vẽ nên bằng sự rung động tinh vi của trái tim nghệ sĩ. Chính điều đó khiến cho mỗi từ ngữ, hình ảnh đều phập phồng sự sống. Ba khổ thơ, mười hai câu thơ, câu nào cũng đẹp, cũng hay nhưng nét riêng của thời điểm giao mùa hạ – thu được Hữu Thỉnh thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối bài:

Hai câu thơ này có hai tầng nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất tả thực hiện tượng sấm chớp và hình ảnh hàng cây trong cơn mưa cuối hạ. Tầng nghĩa thứ hai là nghĩa hàm ngôn thông qua hình ảnh có tính chất ẩn dụ nghệ thuật. Sấm là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời; hàng cây đứng tuổi ngụ ý chỉ con người đã từng trải.

Lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và bất ngờ của những cơn mưa giông mùa hạ đã bớt đi. Hàng cây không còn bị giật mình, run rẩy vì tiếng sấm. Nhà thơ Hữu Thỉnh tâm sự rằng với hình ảnh có giá trị tả thực về hiện tượng thiên nhiên này, ông muốn gửi gắm suy ngẫm của mình: Khi con người đã từng trải thì bản lĩnh cũng vững vàng hơn trước những thử thách của cuộc đời.

Bằng cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên, chân thật, cùng nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa tài tình, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh đặc sắc về thời điểm giao mùa hạ – thu ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Với bài Sang thu, Hữu Thỉnh đã góp thêm một nét thu mang dấu ấn riêng của mình vào những chùm thơ thu hay và đẹp của thơ ca Việt Nam.

Sang thu là bài thơ ngũ ngôn của Hữu Thỉnh, từng được nhiều người ưa thích, gồm có ba khổ thơ; mỗi khổ thơ bốn câu là một nét thu đẹp êm đềm của đất trời, tạo vật trong buổi đầu thu – thu mới về, thu chợt đến. Và cái cảm nhận và suy ngẫm của nhà thơ khi nhìn cảnh vật trong những ngày đầu thu:

Nắng, mưa, sấm, những hiện tượng của thiên nhiên trong thời điểm giao mùa: mùa hạ – mùa thu được Hữu Thỉnh cảm nhận một cách tinh tế. Các từ ngữ: “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờ” gợi tả rất hay thời lượng và sự hiện hữu của sự vật, của thiên nhiên như nắng thu, mưa thu, tiếng sấm buổi đầu thu. Mùa hạ như còn níu giữ. Nắng, mưa, sấm mùa hạ như còn vương vấn mùa thu, vương vấn hàng cây và đất trời. Nhìn cảnh vật sang thu buổi giao mùa, từ ngoại cảnh ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. “Sấm” và “hàng cây đứng tuổi” là những ẩn dụ tạo nên tính hàm nghĩa của bài Sang thu. Nắng, mưa, sấm là những biến động của thiên nhiên, còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những thay đổi, biến đổi, những khó khăn thử thách trong cuộc đời. Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” là một ẩn dụ nói về lớp người đã từng trải, được tôi luyện trong nhiều gian khổ, khó khăn:

Hữu Thỉnh viết bài thơ Sang thu vào đầu những năm 80 của thế kỉ trước. Lúc bấy giờ, đất nước ta tuy đã được độc lập và thống nhất, nhưng đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách mới về kinh tế, về xã hội. Hai câu kết bài thơ mang hàm nghĩa khẳng định bản lĩnh cứng cỏi và tốt đẹp của nhân dân ta trong những năm tháng gian khổ, khó khăn ấy.

Sang thu là một bài thơ hay của Hữu Thỉnh, được in trong tập thơ Từ chiến hào tới thành phố xuất bản vào tháng 5 – 1985. Bao cảm xúc dâng đầy, những vần thơ đẹp, hữu tình, nên thơ. Nhà thơ không sử dụng bút màu để vẽ nên những cảnh thu, sắc thu rực rỡ. Chỉ là một số nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều nhưng tác giả đã làm hiện lên cái hồn thu thanh nhẹ, trong sáng, êm đềm, mênh mang… đầy thi vị.

Cuối mùa hè và đầu mùa thu luôn là những khoảnh khắc tràn ngập những cảm xúc lẫn lộn. Đó là một thức phim với sự khó chịu và lo lắng. Mỗi khoảnh khắc trôi qua, mặc dù nó mỏng manh, nhưng cũng có một dư vị kéo dài của cảm xúc. Dòng cảm xúc bất tận đó đã được Hữu Thỉnh ghi lại và thể hiện dưới đầu một cây bút tài năng:

Vẫn là những tia nắng mặt trời và những giọt mưa mùa hè tinh nghịch nhưng chỉ là “vẫn còn” “vơi dần”. Buổi chiều nóng nực hay những cơn mưa bất chợt, ồn ào của mùa hè bây giờ chỉ mờ nhạt và rải rác. Mùa hè dường như vẫn còn là dư âm, vẫn muốn lưu lại một chút vẻ đẹp của nó với sự sáng tạo của trời đất.

Giống như để lại một chút tình yêu, nhớ gieo một chút mưa cuối mùa ngọt ngào, một chút ánh nắng mặt trời. Nhưng ngay cả khi bám víu, thực tế thời gian vẫn trôi chảy. Mùa thu đến để đưa cảnh quan đến với thiên nhiên với tâm trạng mới và đặc điểm cụ thể:

Sấm sét là một hiện tượng tự nhiên của thời tiết. Sấm sét thường xảy ra sau giông bão và mưa rào vào mùa hè. Cây cổ thụ đề cập đến cây lâu năm cũ. Đây là một bức tranh thực sự về thiên nhiên. Sau khi mưa lớn, sấm sét thường xuất hiện gần những cây có tán lá lớn, rộng – thường là cây cổ thụ.

Khi sấm sét đến mùa thu, nó không còn quá tinh nghịch, mà dần dần giảm bớt vì nó biết rằng mùa thu là mùa của tình yêu nhẹ nhàng. Nhưng có lẽ ý nghĩa ẩn giấu đôi khi được muốn truyền đạt có thể không dừng lại ở đó.

Ẩn đằng sau lớp ý nghĩa thực sự đó là một loạt những suy nghĩ sâu sắc. Sấm sét và mưa tượng trưng cho giông bão và khó khăn của cuộc sống. Ở đây, tác giả sử dụng đường cây, không phải ý nói đến cây cối. Những cây cổ thụ là những hình ảnh ẩn dụ của chỉ một thế hệ, đó là những người đã trải qua một nửa cuộc đời của họ, những người đã nếm trải vị đắng ngọt ngào của cuộc sống bận rộn. Chính những trải nghiệm đó đã khiến họ kiên cường, mạnh mẽ, biết cách đối phó với bão tố, khó khăn, không còn lắc lư, run rẩy trước những “tiếng sấm” ồn ào.

Một cái nhìn xa xôi hơn, Hữu Thỉnh muốn thể hiện tình yêu tha thiết của mình đối với Tổ quốc, anh bày tỏ sự ngưỡng mộ và khen ngợi vì sức mạnh dũng cảm, sự kiên định bất khu phục và tình đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong suốt những năm qua. nhiều năm chiến đấu hết mình để bảo vệ độc lập, tự do và hòa bình của đất nước.

Trong ý tưởng thơ ca trên, cũng có một quan điểm sâu sắc của con người, giống như một mùa thu yên bình và yên tĩnh, khi mọi người đến cuối buổi chiều, khi họ đã trải qua những năm tháng bão tố, họ sẽ không còn cảm thấy khó khăn nữa, họ sẽ bình tĩnh suy ngẫm.

Chỉ với những câu thơ ngắn, những từ mộc mạc và giản dị với tâm hồn lãng mạn của mình, Hữu Thỉnh đã vẽ nên một bức tranh mùa thu độc đáo. Linh hồn của vùng nông thôn, chứa đầy mùi đất của thiên đàng, dường như được mở ra sau mỗi bài thơ. Tinh tế nhẹ nhàng và sâu sắc. Đó là lý do tại sao trái tim của mọi người giống như kéo dài ra, cằn nhằn mỗi phút. Hình ảnh quê hương đất nước tươi đẹp, yên bình và tràn ngập hậu thế.

Bài Viết Số 1 Lớp 8 Đề 1: Kể Lại Những Kỉ Niệm Ngày Đầu Tiên Đi Học 2 Dàn Ý & 15 Mẫu Bài Viết Số 1 Lớp 8 Đề 1

TOP 15 bài Kể lại những kỉ niệm ngày đầu tiên đi học, kèm theo 2 dàn ý chi tiết thuộc bài viết số 1 lớp 8 đề 1. Qua đó, giúp các em học sinh lớp 8 tham khảo, có thêm nhiều ý tưởng mới để hoàn thiện bài viết đầu tiên trong năm học mới của mình.

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề định kể: Ngày đầu tiên đi học

2. Thân bài

a. Tâm trạng của em khi chuẩn bị đến trường

Soạn sửa sách vở, quần áo tươm tất chu đáo đợi ngày được đến trường.

Vui vẻ, háo hức vì sắp được gặp lại bạn bè, thầy cô.

Suy tư, băn khoăn không biết trong những tháng qua các bạn đã làm gì và thay đổi như thế nào.

b. Kể về ngày đến trường

Sáng hôm đó dậy sớm để ăn uống và chuẩn bị đến trường.

Ngạc nhiên trước sự thay đổi của mọi người và cảnh vật: các bạn ai cũng vui tươi và trông lớn hơn hẳn sau một mùa hè. Cây phượng đã rụng hết những bông hoa đỏ của đợt chớm hè…

Lớp học thơm tho mùi của bàn ghế mới, sách vở mới và những bộ quần áo mới.

Cô giáo luôn tươi cười và tận tình giảng dạy.

→ Ngày đầu tiên đi học thật vui tươi, hứng khởi.

3. Kết bài

Nêu cảm xúc về ngày đầu tiên đi học.

I. Mở bài:

Dẫn dắt vào đề tài văn tự sự: kể lại những kỉ niệm ngày đầu tiên đi học

II. Thân bài:

* Kỉ niệm của em trước khi bước vào buổi học đầu tiên

Trước ngày đi học, tôi được mẹ mua quần áo mới, tập sách mới. Lòng nôn nao không ngủ được.

Trằn trọc, rồi lại ngồi dậy mân mê chiếc cặp mới và những quyển tập còn thơm mùi giấy.

Sáng, tôi dậy thật sớm, thay bộ đồng phục mới tinh mẹ mua từ mấy hôm trước. Trong lòng bồi hồi khó tả.

* Kỉ niệm của em trên đường đến trường:

Chỉnh tề trong bộ đồng phục áo trắng quần xanh, đội nón lúp xúp đi bên cạnh mẹ.

Bầu trời buổi sớm mai trong xanh, cao vòi vọi, vài tia nắng xuyên qua cành cây, tán lá. Vài chú chim chuyền cành hót líu lo.

Xe cộ đông đúc, bóp còi inh ỏi.

Hàng quán hai bên đường đã dọn ra, buôn bán nhộn nhịp.

Có nhiều anh chị học sinh với khăn quàng đỏ trên vai, tươi cười đi đến trường.

Hôm ấy là ngày tổng khai giảng năm học mới nên phụ huynh đưa con đến trường thật đông.

Tôi trông thấy vài anh chị trong xóm, các bạn học mẫu giáo chung cũng được ba mẹ đưa đến trường.

Cảnh vật quen thuộc mọi ngày sao hôm nay thấy khác lạ.

Lòng tôi hồi hộp pha lẫn cảm giác e ngại rụt rè khi gần đến cổng trường tiểu học.

* Kỉ niệm của em khi em vào sân trường:

Ngôi trường bề thế, khang trang hơn trường mẫu giáo nhiều.

Trước cổng trường được treo một tấm băng rôn màu đỏ có dòng chữ mà tôi lẩm nhẩm đánh vần được: “Chào mừng năm học mới”.

Sân trường thật nhộn nhịp với cờ hoa, học sinh, phụ huynh, giáo viên,…trông ai cũng tươi vui rạng rỡ, áo quần tươm tất.

Các anh chị lớp lớn vui mừng tíu tít trò chuyện với nhau sau ba tháng hè mới gặp lại.

Tôi quan sát thấy nhiều bạn có lẽ cũng là học sinh mới vào lớp một như tôi bởi cái vẻ rụt rè, nhiều bạn còn bíu chặt lấy tay mẹ và khóc nức nở làm mắt tôi cũng rơm rớm theo.

Một hồi trống vang lên, theo hướng dẫn của một thầy giáo các anh chị nhanh chóng xếp hàng vào lớp. Chỉ có lũ học trò lớp một bọn tôi là bối rối không biết phải làm gì.

Chúng tôi được các cô giáo chủ nhiệm đọc tên điểm danh, có nhiều bạn được gọi tên nhưng lại sợ sệt im lặng không đáp lời cô đến nỗi phụ huynh phải lên tiếng đáp thay. Khi nghe gọi đến tên tôi, tôi giật mình. Tim đập nhanh. Trán rịn mồ hôi. Dù đã đi học mẫu giáo rồi nhưng trong lòng tôi vẫn cảm thấy hồi hộp, lo sợ thế nào ấy. Khi buông tay mẹ để bước vào hàng tôi có cảm giác bơ vơ lạc lõng. Vậy là tôi đã bước vào một thế giới khác: Rộng lớn và đầy màu sắc hơn. Nhiều bạn òa lên khóc nức nở bám lấy mẹ không chịu xếp hàng, cô giáo phải dỗ dành. Các bạn khác cũng khóc theo.

Thầy hiệu trưởng bước lên bục đọc lời khai giảng năm học mới.

Sau đó giáo viên chủ nhiệm dẫn chúng tôi vào lớp. Tôi ngoái lại tìm mẹ, chân ngập ngừng không muốn bước. Mẹ phải dỗ dành an ủi.

* Kỉ niệm của em khi vào lớp học:

Ngồi vào chỗ, đón nhận giờ học đầu tiên. (Ấn tượng sâu đậm về tâm trạng vừa bỡ ngỡ vừa sợ sệt, hồi hộp, gần gũi và tự tin,..).

Mùi vôi mới, bàn ghế sạch sẽ …

Quan sát khung cảnh lớp học: Các bạn ai cũng ngồi ngay ngắn, háo hức đón giờ học đầu tiên.

III. Kết bài:

Kỉ niệm về buổi đầu đi học sẽ là kí ức đáng nhớ nhất trong mỗi tuổi thơ chúng ta.

“Ngày đầu tiên đi học, mẹ dắt em tới trường, em vừa đi vừa khóc. Mẹ dỗ dành yêu thương, …” Đó là những cảm xúc đầu tiên của tôi khi chuẩn bị vào lớp một. Khi tôi ngân nga bài hát này thì lòng tôi lại nhớ đến những kỉ niệm đẹp của ngày đầu tiên đi học.

Nhớ lại lúc ấy, cái thuở tôi còn bé xíu cùng mẹ bước chân vào một ngôi trường tiểu học rộng thênh thang. Khi mới vừa bước chân vào trường thì tôi nắm lấy tay mẹ tôi thật chặt chứ không như những lúc ở nhà; đi đâu cùng được và cũng chẳng sợ gì. Có lẽ vì tôi đã quá quen với từng con hẻm nhỏ ở nhà tôi nên tôi chẳng sợ gì cả, tôi chạy bỏ mẹ lại thật xa. Vậy mà lúc ấy tôi lại chẳng dám rời khỏi mẹ dù chỉ một bước. Giờ học bắt đầu, cổng trường đóng lại, tôi bơ vơ trong lớp nhìn ra ngoài cổng xem còn có mẹ không. Tôi như ở một thế giới hoàn toàn khác khi tôi vừa chia tay mẹ. Lúc đó tôi chẳng biết phải làm gì chỉ biết đứng đỏ mà khóc. Và rồi, cô đến bên tôi, cô nắm lấy tay tôi và cô nói ràng: “Đừng sợ, có cô đây” Tôi nghe cô nói, lời nói thật ngọt ngào và dịu dàng biết bao. Tôi cứ ngỡ cô là người mẹ thứ hai của tôi, che chở, quan tâm, chăm sóc và dạy dỗ tôi. Tôi lúc ấy không còn đi chơi như ngày trước nữa mà tôi đã đi học.

Ngày đầu đi học thật khó, tôi chẳng biết gì cả. Tôi chẳng biết cầm bút, chẳng biết sách vở là gì nhưng điều đó chẳng khó gì khi có cô bên cạnh tôi. Cô đã chỉ tôi cách cầm bút, tập cho tôi viết chữ. Và rồi ba tiếng trống trường vang lên, báo hiệu giờ về đã đến. Những bạn khác thì được ba mẹ đón về nhà. Cô cũng về nhà, chỉ còn lại một mình tôi – cậu học trò lớp một cô đơn trong căn phòng lạnh lẽo. Tôi đã khóc, khóc rất to rồi đột nhiên có ai đó khẽ đặt tay lên vai tôi và nói: “Mình về nhà thôi con”, lúc đó tôi mới nhận ra là mẹ đã ở bên tôi.

Ôi! Sao tôi thương đến thế, sao tôi nhớ đến thế. Cái ngày đầu tiên đi học của tôi. Cái ngày mà tôi có nhiều kỉ niệm nhất trong tuổi thơ của mình.

Khi đã đi qua thật nhiều kỉ niệm buồn vui, tôi mới nhận ra rằng, những ngày đầu tiên luôn mang lại cho chúng ta những cảm xúc tuyệt vời nhất, Lần đầu tiên giúp mẹ làm việc nhà, lần đầu tiên đi chơi xa, hay lần đầu tiên đi học, Những cảm xúc ngày đến trường đầu tiên ấy, có lẽ không bao giờ tôi quên. Bởi nó trong trẻo, thơ ngây như chính những năm tháng học trò vậy.

Sáng ngày tựu trường là sáng ngày ngày thu, trời trong xanh không một gợn mây. Ông mặt trời toả tia nắng đầu thu, soi sáng mọi vật xua tan đi màn đêm. Tôi tự dậy từ sáng sớm, chuẩn bị mọi thứ xong xuôi. Lần đầu tiên tôi mặc đồng phục của trường. Trông thật là lạ. Tôi đã trở thành cậu học trò rồi đó sao? Cả nhà đều tấm tắc khen tôi chững chạc hẳn lên, làm tôi như có động lực hơn nữa.

Mẹ chở tôi trên con đường làng quen thuộc nhưng sao mọi thứ hôm nay khác quá. Dải hoa ven đường nở rộ như chào đón những cô cậu học sinh bước vào năm học mới. Con đường làng như rộng hơn… Từng tốp học sinh tay trong tay, khăn quàng đỏ tươi rộn rã tiếng cười nói hoà vào tiếng chim hót líu lo, tiếng xe cộ đi lại làm không khí náo nhiệt hơn. Cổng trường hiện ra trước mắt tôi. Nó to và đẹp quá, cả dãy nhà nữa, thật là to lớn! Dòng chữ: ”TRƯỜNG TIỂU HỌC KIM ĐỒNG” ngay ngắn trên cổng. Cha mẹ, các bạn học sinh từng tốp một bước vào trường, đông đến kín cả cổng. Với những người cha, người mẹ có con mới vào như mẹ tôi có thể nhận thấy rõ một điểm chung, đó là gương mặt. Họ đều tỏ rõ vẻ lo lắng, suy tư mong cho con mình có ngày tựu trường đầu tiên diễn ra tốt đẹp. Xen lẫn vào đó là cả sự mong đợi, hi vọng vào đứa con yêu quý của mình. Dù đã chuẩn bị trước tinh thần nhưng tôi vẫn thật sự bất ngờ. Quá đông người mà cũng toàn người lạ. Tôi sợ hãi chỉ biết nép vào người mẹ, nhìn mọi người. Những cậu bạn khác cũng không hơn tôi là mấy. Đều sợ sệt, ngại ngùng trong ngày đầu tiên tựu trường.

Thế rồi tiếng trống vào lớp cũng vang lên. Mẹ dắt tay tôi vào lớp:

– Đi thôi con, sau hôm nay con sẽ là cậu học trò, đầy khát vọng và ước mơ. Mẹ nhìn tôi trìu mến rồi đưa tôi đến cửa lớp. Bỗng mẹ dừng lại trước một người phụ nữ:

– Chào cô đi con. Đây là cô Nhi, cô sẽ là cô giáo của con. Rồi người phụ nữ nở nụ cười trìu mến, dắt tay tôi vào lớp học. Cô mặc bộ áo dài trắng thướt tha, mái tóc dài cùng nụ cười hiền hậu. Tôi không dám bước đi tiếp, cứ ngoái đầu lại nhìn mẹ trong lo âu. Tôi không muốn phải rời xa vòng tay của mẹ, bước vào môi trường mới với thầy cô, bạn bè đều lạ, làm sao tôi quen được đây. Cô Nhi nhẹ nhàng dỗ dành tôi với giọng nói ấm áp, vừa xa lạ nhưng cũng thân thương vô cùng:

– Bước sau ngưỡng cửa lớp học kia là cả một chân trời mới với bao kiến thức, bao bạn bè thầy cô. Rồi em sẽ dần khôn lớn và trưởng thành. Nào vào lớp thôi em.

Từng lời cô nói như mở ra cho tôi những chân trời mới, như an ủi vỗ về tôi. Tôi như được tiếp thêm niềm tin để bước vào lớp cùng bao bạn bè khác. Tôi tự tin rời khỏi vòng tay mẹ, khẽ mỉm cười rồi bước vào lớp. Có lẽ, mẹ cũng đang hài lòng vô cùng vì con mẹ dần khôn lớn lên rồi, tôi nghĩ như vậy. Quả đúng là như thế. Bước qua cánh cổng trường là ngôi nhà thứ hai của tôi, là nơi để chúng tôi học tập, rèn luyện thành người. Trường học, thầy cô yêu thương trìu mến đã dạy tôi thành người, dạy tôi cách sống tốt. Từng bước trưởng thành trên con đường học tập có cô. Không chỉ ở bậc nhà giáo, mà những người đồng hành cùng tôi là cha mẹ, bạn bè. Ngày tựu trường hôm ấy thật khó quên với bao cảm xúc lẫn lộn. Ngày tựu trường ấy đánh dấu mốc đầu tiên trên con đường đời của tôi.

Kỉ niệm thời thơ ấu với mỗi con người là không thể thay thế. Đặc biệt trên con đường thành công sau này, kí ức ngày xưa sẽ là hành trang quan trọng giúp ta tiến lên phía trước. Còn đó bao ngày tựu trường nữa nhưng ngày hôm ấy là ngày thật đẹp đẽ nhất.

Nhân lúc soạn lại tủ sách cũ để sắp xếp góc học tập cho niên học mới khi bước vào lớp 8, em làm rơi ra một tấm ảnh kỉ niệm năm lớp một, chụp cùng bè bạn ngày lãnh thưởng cuối năm. Nhìn gương mặt ngây thơ của em và các bạn trong ngày ấy… bao kỉ niệm ngày đầu tiên nhập học trường tiểu học lại trở về trong trí óc em, rõ ràng như một cuốn phim.

Vừa rảo bước trên sân tìm lớp, trong trí tôi vừa lúc vừa nhớ lại giọng đọc một bài văn hay của mẹ tôi đêm qua: “Con ơi! Hiện thời, không một đứa trẻ nào mà không đi học. Con hãy nghĩ đến những lúc người thợ làm lụng cặm cụi cả ngày, tối đến còn phải cắp sách đi học, những cô thiếu nữ suốt tuần bị giam giữ trong xưởng, chủ nhật đến, cũng rủ nhau đi học, những binh lính hết giờ luyện tập cũng đem sách vở ra học, viết. Cho đến những đứa trẻ mù, trẻ cảm, chúng cũng đều đi học cả.

Những giọt “An côn” làm tôi đau rát quá, xuýt xoa, nhăn nhó. Nhưng sau khi cô y tá lau chùi và băng bó xong, tôi lại hết đau ngay. Chúng tôi lại tiếp tục vui đùa trên những dãy hành lang lớp một. Vậy mà khi vào học tiếp hai tiết nữa, tôi thấy bụng đói và nhớ mẹ lạ lùng, tôi cố quên hình ảnh mẹ để nghe cô giảng cho đến khi trống trường báo hiệu tan học. Bỗng một giọng nói đột ngột vang lên: “Con ơi, ngồi làm gì ở đó mà lâu thế? Con dọn dẹp, sắp xếp xong chưa? Đi ăn cơm nào!” Tôi giật mình nhìn lại, thì ra mẹ đã kéo tôi về thực tại: năm học lớp tám đang chờ đón tôi. Tạm biệt mùa hè!

Vậy là năm nay em đã là một học sinh lớp 8 rồi đó, đã là một cô học sinh chững chạc không như ngày này của 8 năm về trước. Tám lần được dự lễ khai trường, nhưng buổi khai trường đầu tiên vào lớp Một vẫn luôn để lại trong kí ức em ấn tượng sâu đậm nhất và có lẽ em sẽ không bao giờ quên được kỉ niệm vào ngày hôm đó.

Đêm hôm trước ngày khai giảng, em sống trong tâm trạng nôn nao, háo hức, chắc đó cũng là tâm trạng chung của những bạn mới bắt đầu đi học như em. Có một điều gì đó lạ lắm, quan trọng lắm đang xảy ra trong căn nhà bé nhỏ của gia đình em. Như thường lệ Mẹ luôn là người chuẩn bị đầy đủ những thứ cần thiết cho em. Những cuốn sách giáo khoa, những cuốn vở ghi bài đủ loại với những hình chuột Mickey, công chúa váy hồng. Chiếc bảng nhỏ, phấn viết, đồ lau, bút mực, bút chì đủ cả. Em xếp gọn từng thứ trong chiếc cặp xinh xinh có hai quai để đeo lên vai cho tiện. Tất cả mọi thứ đã sẵn sàng cho một ngày khai trường ấn tượng.

Dù là một cô bé dễ ngủ nhưng buổi tối hôm đấy em phải nằm rất lâu mới có thể ngủ được. Bao nhiêu những suy nghĩ tưởng tượng về ngày mai cứ hiện lên trong đầu của em. Đầy thú vị nhưng cũng không khỏi lo lắng hồi hộp.

Sáng hôm sau, mẹ chở xe đưa em tới trường. Ngồi sau xe, em nhìn cảnh vật hai bên đường thấy cái gì cũng mới, cũng lạ. Ngôi trường Tiểu học Đàm Duy Thành chỉ cách nhà khoảng cây số mà sao em cảm thấy xa ghê! Trước cổng trường là tấm băng-rôn đỏ nổi bật dòng chữ vàng tươi: Chào mừng năm học mới 20.. – 20…. Hai hàng cờ đuôi nheo đủ màu phất phới trong gió sớm trông giống như những bàn tay xinh xinh đang vẫy vẫy. Niềm vui tràn ngập nơi nơi, từ bầu trời trong xanh, từ màu nắng tinh khôi, từ tiếng chim líu lo trong vòm lá lóng lánh sương thu từ những gương mặt trẻ thơ ngời ngời hạnh phúc và tin tưởng.

Trong sân trường, người đông như hội. Các bạn trai tỏ ra mạnh dạn hơn. Các bạn gái ngại ngùng quấn bên chân mẹ, chẳng nỡ rời. Em cũng vậy. Nhìn ngôi trường ba tầng rộng lớn, em cảm thấy mình nhỏ bé làm sao! Mẹ khuyên em hãy bình tĩnh, vui vẻ và tập làm quen với chỗ đông người. Tuy đã rất cố gắng nhưng tim em vẫn đập thình thịch pha lẫn cảm xúc rất khó tả.

Một hồi trống vang lên giòn giã. Lễ khai giảng sắp bắt đầu. Các anh chị học sinh lớp lớn khăn quàng đỏ thắm trên vai đã xếp hàng ngay ngắn. Phụ huynh trao con cho các thầy cô giáo chủ nhiệm lớp Một. Đây đó nổi lên tiếng khóc thút thít, tiếng gọi mẹ nho nhỏ. Em không khóc nhưng nước mắt cũng rơm rớm quanh mi. Một nỗi xúc động khó tả dâng lên trong lòng. Em bịn rịn rời tay mẹ, cùng các bạn xếp hàng theo lớp.

Buổi khai giảng đầu tiên trong đời học sinh mới long trọng và trang nghiêm làm sao! Tiếng trống trường thôi thúc, náo nức lòng người. Lá cờ Tổ quốc bay phần phật trên đỉnh cột. Giáo viên và học sinh đứng nghiêm, mắt hướng về lá Quốc kì. Tiếng quốc ca vang vang trên sân trường rực nắng.

Cô Hiệu trưởng đọc lời khai giảng năm học. Sau đó cô dặn dò, khuyên nhủ chúng em nhiều điều. Cô chúc chúng em học tập ngày càng tiến bộ.

Buổi lễ kết thúc, chúng em theo cô Hồng về nhận lớp, Lớp Một A gồm bốn chục học sinh. Em rất vui khi gặp lại Sơn và Hải, hai bạn học chung ở trường Mẫu giáo Sơn Ca. Chỉ một lúc sau, em đã biết các bạn ngồi cùng bàn tên là Hoa, Tâm và Ngọc. Những câu chào hỏi rụt rè làm quen cùng những ánh mắt bỡ ngỡ thật dễ thương!

Tan học, mẹ đã đợi sẵn ở cổng trường. Ríu rít như chú chim non, em kể cho mẹ nghe những chuyện về buổi khai trường, cho đến bây giờ, những hình ảnh ấy vẫn hiện lên nguyên vẹn trước mắt em. Nó đã trở thành kỉ niệm đẹp đẽ không thể nào quên của thời thơ ấu.

Ngày đầu tiên khai trường, đó là cái ngày mà chắc hẳn không ai trong chúng ta có thể quên được. Cái ngày ấy đã đánh dấu sự kiện mỗi chúng ta bước vào con đường học tập. Năm nay tôi đã lên lớp 8, đã quá quen với không khí học đường, nhưng chợt nhìn thấy những em học sinh lớp một nắm tay bố mẹ dẫn đến trường, làm tôi thêm bồi hồi, xao xuyến và nhớ lại những kỉ niệm ngây thơ, bé bỏng của một cậu bé chập chững bước vào cổng trường trong bàn tay đầy tình thương của mẹ tôi.

Ấy là cái ngày mà tôi sẽ không bao giờ quên. Đó là một buổi sáng cuối thu êm đềm, bầu trời cao trong xanh có ánh nắng vàng tươi. Cái mùa thu ở quê tôi thật đặc biệt – mùa thu miền Trung – không se lạnh như ở miền Bắc hay quá nóng nực như ở miền Nam. Nó dịu ngọt và nhẹ nhàng. Quả đúng là thời điểm khiến cho người ta dễ nhớ. Phải chăng đây chính là lí do để mùa thu là mùa tựu trường? Tôi nao nao trong lòng những tưởng tượng ngây thơ với tâm trạng một đứa trẻ sắp đối diện với một sự kiện quan trọng. Thực ra lúc đó còn bé, chưa cảm nhận được mấy về ngày khai trường và cũng chẳng biết đó là ngày gì, nhưng thấy sự quan tâm, bận rộn của người lớn phần nào tôi cũng đã nhận ra có cái gì đó quan trọng. Hôm nay mẹ sẽ là người đưa tôi đến trường. Vùng quê tôi không phải ở thành thị, cũng chẳng phải một nơi nào giàu có, đó là một vùng quê mang đầy nét thôn quê và sự dân dã. Trên đường đi học, tôi thấy có rất nhiều các bạn học sinh cùng các bậc phụ huynh. Tôi để ý thấy từng nét mặt lo lắng trên mặt họ, trong đó có cả mấy đứa thường đi chơi với tôi, cùng với sự chu đáo của người lớn giống như mẹ tôi vậy. Điều đó càng làm tôi hiểu thêm về tầm quan trọng của ngày này, nhưng cũng chính vì đó mà khiến tôi càng thêm bận tâm. Tâm hồn tôi bấy giờ nặng trĩu nhưng rồi lại nhẹ nhàng như những cánh hoa tươi rực rỡ trong nắng mai cùng làn gió nhè nhẹ thổi qua, xoa dịu đi cái bồi hồi của tâm trạng.

Ô kìa, kia có phải là trường học, nơi mà tôi sẽ đến. Tôi lờ mờ nhận ra như vậy vì thấy nó khang trang và to lớn hơn bất cứ cái nhà nào mà tôi từng gặp. Mẹ xoa đầu tôi, nhẹ nhàng nói: “Con yêu, trường học của con đây rồi. Đây sẽ là nơi tu dưỡng đạo đức và kiến thức cho con”. Quả thực tâm trạng tôi mỗi lúc thay đổi. Bây giờ tôi không còn cảm thấy quá sợ nữa nhưng không hiểu sao chân tôi cứ díu lại. Dù vậy nhưng tôi vẫn cố nhảy theo những bước chân của mẹ. Đi được một đoạn thì ngôi trường đã hiện rõ trước mắt. Trước mặt tôi là một cái cổng trường to lớn với những chữ viết lằng nhằng khó hiểu. Xung quanh đó là hàng trăm các bạn học sinh khác cùng với biết bao tâm trạng, suy nghĩ. Bạn thì níu chân mẹ, người thì mếu máo. Chợt có tiếng khóc òa sau lưng tôi, tôi liền chạy lại úp mặt vào mẹ và cũng nghẹn ngào khó tả. Nước mắt tôi đã dưng dưng đến tận cổ họng. Mẹ an ủi tôi cùng những lời nói ngọt ngào, làm tôi lấy lại can đảm lau nhẹ nước mắt và mồ hôi, đứng thẳng người. Cùng lúc đó, có một cô giáo đi lại phía tôi. Tôi ngơ ngác nhìn thì cô nhẹ nhàng cất tiếng nói: “Chị cho cháu vào lớp đi. Đó là lớp của em” Giọng nói ấm ấm, thanh thanh mà ngọt ngào của cô đã khiến tôi không còn cảm giác sợ hãi nữa. Cô nhẹ nhàng nắm tay tôi dắt vào lớp, tôi đi theo sau cô và cảm nhận mùi thơm từ tà áo dài của cô.

Cô bảo: “Lớp mình ở đây. Tý nữa ra tập trung khai giảng xong thì về đây học”. Bỗng có hồi trống cái vang lên làm tôi giật nảy mình ôm chầm lấy cô giáo. Cô giáo cười, xoa đầu tôi bảo: “Đấy là tiếng trống trường. Trống báo đã đến giờ tập trung rồi”. À, thế ra đấy là tiếng trống trường. Từ trước tôi vẫn chỉ nghe tiếng trống cơm bung bung nhỏ bé của những đêm rằm Trung thu nào đã được nghe tiếng trống trường bao giờ. Sáng ấy, lần đầu tiên tiếng trống trường dội vào lòng tôi – tiếng trống rộn ràng, giục giã, nao nức khiến tim tôi cũng muốn nhảy nhót và lòng tôi hồi hộp muốn khóc lên. Tiếng trống đầu đời đi học ấy – ai ngờ sẽ là nguồn cảm xúc đi theo tôi suốt cuộc đời học tập. Rồi chúng tôi xếp hàng trước lá cờ đỏ sao vàng. Một thầy giáo hô chào cờ rất to. Chúng tôi đứng im phăng phắc mà không hát vì lúc đó hầu hết đều chưa biết bài hát Quốc ca. Chỉ sau đấy vào lớp, tiết học đầu tiên cô giáo mới dạy bài hát Quốc ca. Chúng tôi hát rất say sưa, hát hào hùng, thuộc rất nhanh vì cô giáo bảo để sau này mỗi lần chào cờ chúng tôi sẽ hát dưới cờ chứ không đứng im như hôm nay.

Với tôi, nếu không có ngày khai trường đầu tiên đi học chữ – phút đầu tiên được “thưa cô giáo”, lần đầu tiên nghe tiếng trống trường và đứng dưới lá cờ tổ quốc hát quốc ca ấy tôi sẽ có gì sâu sắc với mái trường và tuổi thơ nhỉ? Tâm hồn tôi sẽ nghèo đi biết chừng nào. Những kỷ niệm đẹp đẽ trong ngày khai trường đầu tiên ấy đã góp phần bồi đắp nên tâm hồn thơ của tôi đấy thơ ơi!

Cái ngày trọng đại ấy – ngày đầu tiên tôi đi học, đã trôi qua thật ngọt ngào ở một lớp học bé xíu ươm màu nắng…

Sáng sớm, dưới những hàng phượng chiu chít bông, có một con bé lẽo đẽo ôm tập theo vành nón mẹ đi học. “Đi học”, một khái niệm hoàn toàn xa lạ với cô bé, bảo sao nó không hồi hộp? Bao nhiêu câu hỏi cứ thi nhau hiện lên trong đầu nó cốt để vẽ ra một bức tranh về ngôi trường kia. Mải mơ mộng, con bé không biết đã đến nơi tự lúc nào. Mẹ nó đang nói chuyện với cô giáo, thỉnh thoảng lại cười chỉ vào nó, nhưng nó đâu quan tâm.

Kia là “Ngôi trường”. Một khoảng sân không tường rào, thênh thang gió, lô xô đủ thứ cây ăn quả chín mọng mà đứa con nít nào cũng phải thèm. Một phòng học bé xíu ngói đỏ tường rêu mốc núp dưới tầng lá xanh. Một lũ nhóc lít nhít cùng tuổi nó đang nô đùa ầm ĩ trên bậc thềm đất nện. Bỗng, mẹ đẩy nhẹ con bé về phía cô. Đến bây giờ nó mới ngắm cô thật kĩ. Cô đã lớn tuổi, mái tóc dài hoa râm và đôi mắt thật hiền. Khom người, cô chìa tay về phía nó. Phải là người khác thì con bé đã quay đi, giấu mặt sau lưng mẹ mếu máo sợ. Nhưng sao ở gần cô nó lại thấy thật ấm áp thương thương. Lạ ghê! Khẽ đặt nắm tay bé xíu vào bàn tay cô, con bé cúi đầu bi bô: “Con chào cô ạ!”.

Giờ học đầu tiên cô không cho nó tập tô chữ như chị Hai kể. Cô giáo dặn dò đủ điều, từ chuyện chỗ ngồi đến việc bao vở, cầm bút. Chuyện gì cô cũng hướng dẫn kĩ. Nhưng nó đâu có nhớ gì đâu. Mà nhớ làm chi cho mệt, thế nào trưa nay đón, mẹ cũng hỏi cô rồi chuẩn bị tươm tất cho nó cả thôi. “Nhưng – cô đột ngột chuyển giọng làm nó chú ý – trước khi là học sinh các con phải nhớ: Tiên học lễ, hậu học văn” con bé khoanh tay ngay ngắn trên tập vở, mắt xoe tròn lắng nghe bài giảng đầu đời! Bây giờ nó cũng đang đi học như ai, cũng đường hoàng ngồi trong lớp học, cũng được nghe lời cô giáo giảng để… để… À, đúng rồi! Để “Mở mang tri thức” y như lời ba nói tối qua.

Nửa buổi học đầu tiên trôi qua êm thấm. Ra chơi. Cô giáo vừa quay lưng cất hộp phấn, lũ trẻ đã đua nhau ào ra sân. Con bé líu ríu chạy theo. Vui ghê! Mà cũng lạ ghê, lần đầu tiên con bé chơi giữa nhiều người lạ mà không hề mè nheo mít ướt. Ban đầu, ai cũng lạ lẫm nhưng rồi đều nhập cuộc nhanh chóng vào những trò chơi hấp dẫn. Tiếng cười làm nắng hè rộn rã vang lên ngập khoảng sân nhỏ. Đột nhiên: “Xoảng!”. Chiếc dép của con bé bay tít lên cao. Dưới đất một chậu cây vỡ tan tành. Miếng chậu văng ra quẹt cả vào má nó. Lũ bạn kinh hãi, trố mắt vây quanh. Con nhóc nằm bẹp dưới đất oà lên. Đau thì ít, sợ thì nhiều. Nó sợ cô giáo giận nó, mắng rồi không cho nó đi học nữa. Sợ phải xa nơi này – cái nơi mà nó đã yêu ngay từ lần đầu đặt chân đến. Cô giáo tất tả chạy ra, đỡ nón len, phủi bụi. Con bé nhắm tịt mắt chờ cô mắng. Một tấm khăn ướt, lạnh tê cả người áp vào mặt nó. Con bé ngạc nhiên, ti hí nhìn hàng lông mày thanh thanh đang xô vào tròng kính.

Buổi học lại bắt đầu. Nó được đặc cách ngồi trong lòng cô để nghe chuyện. Giọng cô thật hay. Lâu lâu, nó cứ phải có kìm tiếng nấc để khỏi làm cô ngừng lại: “Hết đau chưa con?”. Rồi cô vỗ nhẹ vào đùi nó tiếp tục kể. Con bé ngã vào cô. Nghe thật dịu êm!

Đến khi nó tỉnh dậy thì mặt trời đã lên cao và mẹ đã đợi sẵn ở cửa tự lúc nào. Nó dụi mắt, tuột xuống, ôm tập sà vào lòng mẹ rồi líu ríu chào cô. Trên đường về nhà nó cứ nhắc mãi: “Mai mẹ nhớ gọi con dậy sớm đi học nghe!”.

Thoắt cái đã tám năm trôi qua. Con bé ngày ấy đã là tôi của bây giờ. Một cô học trò hằng ngày vẫn đạp xe đến trường. Vẫn vui đùa nghịch ngợm với bạn bè. Vẫn tíu tít kể chuyện khi có ai hỏi về vết sẹo trên má. Để rồi, mỗi khi đi ngang qua chốn ấy bỗng dừng lại bật cười ấm áp.

Mỗi con người ai cũng có những kỉ niệm. Từ những kỉ niệm vui, buồn hay kỉ niệm về thời thơ ấu của mình. Chắc hẳn mọi người vẫn còn nhớ đúng không? Tôi cũng vậy. Tôi nhớ nhất là ngày đầu tiên đi học của tôi. Kỉ niệm đó chẳng thế nào quên được.

Đó là ngày đầu tiên tôi đến trường. Mẹ đã dắt tay tôi từng bước một đi trên con đường đó. Lúc ấy tôi có cảm giác rất sợ và lo lắng nữa. Trên vai tôi là chiếc cặp mà mẹ đã mua cho tôi vào hôm qua. Cùng với những cuốn sách và tập vở mới tinh. Tôi nhìn xung quanh và cũng thấy rất nhiều bạn học mới. Có bạn thì tung tăng vui đùa bên cha, mẹ mình. Có bạn thì lại mếu máo khóc sướt mướt vì không muốn rời xa người thân. Khi đứng trước cổng trường, tôi đã sững sờ và đứng lại một giây vì mọi thứ đều quá bất ngờ và lạ mắt. Ngôi trường ấy rất cao, to…Tất cả đều được phủ một lớp màu xanh nên trông rất mát mẻ. Vào bên trong trường tôi càng bất ngờ hơn, với hàng ngàn các bạn học sinh đang xếp hàng ngay ngắn. Ai cũng đều khoác trên người bộ quần áo mới và trắng tinh cùng với cái logo in hình biểu tượng của ngôi trường. Xung quanh ngôi trường đều là những hàng cây cổ thụ cao to. Chúng như đang vẫy tay đứng chào các bạn học sinh mới vào trường. Còn các thầy cô đều đứng rất nghiêm túc và luôm mỉm cười với các bạn học sinh.

Ngày đầu tiên đi học là như thế đó. Tôi hứa với lòng mình sẽ luôn học thật giỏi không phụ lòng cô và cha mẹ của mình. Tôi cùng sẽ không bao giờ quên những kỉ niệm đẹp này.

Nói đến ngày đầu tiên đi học, không ai trong chúng ta quên được. Năm nay em đã học lớp 8, chẳng lạ gì ngày khai trường, nhưng em chẳng thể nào quên được buổi khai trường, khi em bắt đầu vào lớp 1. Cảm giác bỡ ngỡ, rụt rè khi thoát khỏi vòng tay của mẹ và bước qua cổng trường thật lạ kì.

Đêm hôm trước ngày khai trường, cảm xúc trong em thật lẫn lộn: bồn chồn, vui mừng, hồi hộp và lo lắng nữa. Chẳng hiểu sao khi ăn cơm em cứ nghĩ đến buổi khai trường, rồi sau đó em đi đi lại lại, nôn nao trong người là ngày mai sẽ có mặt trong 1 sự kiện quan trọng, thật là thích biết bao. Mẹ đã chuẩn bị tất cả mọi thứ cho em, cái gì cũng thật lạ lẫm: bút chì, thước kẻ,… mà em bây giờ không nhớ rõ, nhưng mọi thứ đều đủ cả. Em thích thú ngắm từng thứ 1, rồi xếp gọn gàng chúng vào cặp sách, lòng đứng hứng khởi. Rồi mẹ cho em mặc đồng phục của trường tiểu học: áo trắng và váy màu đỏ, em mặc vừa i. Nhớ lại tối hôm đó, em đeo cặp sách chạy xung quanh nhà cho mọi người xem mình đã bắt đầu chững chạc đến nhường nào. Căn nhà hôm đó như nhộn nhịp hẳn lên, mọi người bàn tán, nói về em, về tương lai của em. Gia đình đã kể cho em nghe rất nhiều về trường lớp, làm em càng hứng thú hơn. Bà nội em khen: ”Cháu lớn nhanh quá, cố gắng học giỏi để mọi người vui nha” em cười ngượng nghịu. Hôm đấy, phải thức khuya lắm em mới ngủ được, nhưng tại sao em lại trằn trọc khó ngủ như vậy nhỉ? Em thao thức, suy nghĩ triền miên “Không biết ai sẽ dạy nhỉ? Bạn bè có nhiều không?….Và em chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay biết.

Sáng hôm sau, em dậy rất sớm, đánh răng, rửa mặt rồi ăn sáng, thật sự lúc đó em rất phấn khởi, sau khi mặc đồng phục xong mẹ đưa em đến trường bằng xe máy, trong lòng em xốn xang, hồi hộp và háo hức. Trên trời, những đám mây bồng bềnh trôi đi như muốn ngao đó đây, bầu trời trong xanh. Vẫn con đường ấy, vẫn cảnh vật ấy, sao hôm nay lại thấy lạ vậy … Hàng cây như xanh hơn, cao hơn, những ngôi nhà trông khang trang hơn mọi ngày. Con đường thân quen ngày nào sao hôm nay sạch sẽ gọn gàng ghê. Mặt trời đã dần dần nhô lên, tỏa ra những tia nắng đầu tiên, thay thế cho màn đêm mờ ảo là ánh sáng hồng tươi đang lan tràn khắp không gian. Nhưng hàng cây xanh cũng vừa tỉnh giấc, đang khẽ rùng mình. Trên những tán lá xanh còn đọng lại những giọt sương sớm, có những chú chim đã dậy từ rất lâu và đang cất khúc ca chào đón ngày mới. Theo tiếng chim ca, những tia nắng vàng tươi cũng bắt đầu nhảy múa hát ca trên những con đường. Giờ đây, không gian không còn yên tĩnh nữa mà thay vào đó là tiếng nói cười của các anh chị học sinh đang rảo bước đến trường, và tiếng xe máy của các bác phụ huynh đưa con đến trường. Các bạn mặc quần áo rất chỉnh tề, gương mặt vui tươi nhưng không kém phần lo lắng. Chẳng mấy chốc mà em đã đứng trước cổng trường. Đứa nào đứa nấy cũng đều ngơ ngác nhìn ngược nhìn xuôi và trên khuôn mặt chúng có chút gì đó sợ sệt. Thường thì khi gặp điều gì đó có vẻ lạ, tôi đều muốn khám phá và tìm hiểu nó. Có lẽ điều đó khiến cho ngày tựu trường đối với tôi thật đặc biệt, giống như một cuộc phiêu lưu kỳ lạ. Ngay trong lễ khai giảng, mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía những học sinh lớp một khiến tôi cảm thấy tự hào vô cùng. Mà đâu chỉ có mình tôi, nhiều bạn đứng trước, bạn thì ưỡn ngực ra vẻ, bạn thì mặt mày tỏ vẻ nghiêm túc lắm mà miệng thì cứ cười tít mắt. Rồi một chị lớp năm với cương vị là liên đội trưởng chỉ huy cho toàn trường hát quốc ca. Tất cả chúng tôi đều hát rất to. Tôi bất giác tưởng tượng ra mình chính là một chiến sĩ nhỏ đang đứng trong một đoàn kị binh oai hùng đánh đuổi những tên khổng lồ mà hằng đêm mẹ vẫn kể trong các câu chuyện cổ tích. Xong tiết mục chào cờ, chúng tôi được nghe đọc thư mừng ngày khai giảng của Chủ tịch nước. Điều này khiến tôi dần dần nhận ra được tầm quan trọng của việc học hơn trước rất nhiều. Tiếp đến là tiết mục đánh trống khai trường của thầy hiệu trưởng. Trông thầy thật hiền từ và nhân hậu biết bao. Thầy giống như một người cha lớn của hàng trăm em học sinh đang ngồi đây vậy. Tiếng trống trường cất lên “Tùng! Tùng! Tùng!” nghe thật vang xa báo hiệu cho một năm học mới đã đến. Rồi những quả bóng bay đủ màu sắc cũng được thả bay trên bầu trời. Lúc đó tôi có một cảm giác rằng mình cũng đang bay, đang bay trong một biển trời tri thức mới, vai trò một người học sinh đang đến với tôi khiến tôi tự hào vô cùng. Nó làm tôi cảm giác mình lớn hẳn lên không phải vì mấy hôm trước có cao hơn vài centimét mà lớn hơn trong tiềm thức tôi mặc dù tôi chỉ vừa tròn sáu tuổi.

Tuổi thơ của tôi đã trải qua biết bao kỉ niệm vui buồn, có những kỉ niệm cùng bạn bè, cùng gia đình hay chỉ là kỉ niệm của riêng tôi. Những kỉ niệm chính là những kí ức tươi đẹp đáng nhớ nhất, là quá khứ để tô vẽ nên tương lai của chúng ta, đối với tôi kỉ niệm không thể quên đó là ngày đầu tiên đi học.

Nhớ ngày đó, khi tôi mới chỉ là cậu bé 6 tuổi bé tẹo, ngồi đằng sau chiếc xe đạp Thống Nhất và chị tôi chở đến trường ngày khai giảng. Trên đường đi tôi cứ ghì bám hai bên vạt áo của chị, hỏi chị đủ thứ về ngày khai giảng, nào là “khai giảng có đông người không?”, “đi khai giảng có phải mang sách vở không?”,… vô vàn câu hỏi ngây ngô của tôi khi ấy khiến chị của tôi rất buồn cười. Tôi còn nhớ mình đã rất gìn giữ bộ quần áo mới mặc trong ngày đi học đầu tiên, lúc nào cũng ngó xuống lấy tay phủi bụi rồi lại sửa khăn quàng cho chỉnh tề, không dám đưa tay bẩn lên sờ vào quần áo. Chị đưa tôi tới trường rồi chị cũng đi tới trường của chị, chỉ còn mình tôi bơ vơ, tôi sợ đến suýt khóc nhưng nghĩ rằng khóc ở đây thì thật xấu hổ nên lại cố gắng không khóc. Tôi nhìn các bạn đi vào trường cũng theo vào, đứng vào hàng ghế lớp mình và ngồi xuống, một vài bạn cùng lớp với tôi đã bắt chuyện với tôi giúp tôi đỡ bỡ ngỡ và lo lắng hơn, không ngờ sau đó chúng tôi đã chơi thân với nhau cho đến tận bây giờ.

Thật khó để kể được hết những cảm xúc của tôi trong ngày đi học đầu tiên, khó để nói thành lời hay viết thành văn nhưng dù trải qua bao thời gian tôi vẫn ghi sâu và nhớ về những kỉ niệm đó.

Người ta thường nói, trong cuộc đời mỗi người đều sẽ phải trải qua những cột mốc, giai đoạn khác nhau, ở mỗi giai đoạn sẽ có sự biến đổi trong suy nghĩ, nhận thức và hành động của bản thân để thích ứng. Và chính tôi đã cảm nhận được sự thay đổi đó trong ngày đầu tiên đi học.

Ai chưa từng bỡ ngỡ, bồi hồi, lo lắng và sợ sệt khi ngày đầu tiên rời xa vòng tay mẹ để tới trường đi học. Mới đầu tôi rất háo hức chờ mong đến ngày khai giảng để được mặc quần áo mới, đeo cặp sách mới để đi học, nhưng khi vừa đến cổng trường mẹ nói tạm biệt ra về tôi đã muốn chạy theo bám lấy mẹ. Lần đầu tiên trong đời tôi biết tự nhắc nhở bản thân, tự động viên và cổ vũ mình rằng “mình sẽ làm được, mình sẽ không khóc”, tôi lấy hết can đảm để bước vào cánh cổng trường. Mọi cảm xúc khi ấy hỗn loạn và khó để diễn tả, tôi vừa sợ lại vừa vui sướng, trường đông học sinh quá, cờ hoa rực rỡ, nhộn nhịp và tưng bừng nhưng tôi chẳng quen ai, bạn bè và thầy cô đều xa lạ, mọi thứ đều mới lạ. Tôi nhận ra không phải một mình tôi rơi vào hoàn cảnh ấy, nhìn vào ánh mắt ngơ ngác của bao học sinh mới đến trường đều như vậy, có đôi mắt còn sưng lên, hoen đỏ vì khóc. Sau buổi khai giảng chúng tôi được về lớp của mình, nụ cười tươi đón chào của cô giáo chủ nhiệm đã giúp tôi tự tin hơn, không còn rụt rè e sợ, tôi tự nhủ rằng rồi sẽ quen thôi.

Ngày đầu tiên đi học của tôi đã trôi qua như vậy, trong số chúng ta ai cũng có ngày đầu tiên đi học của mình, dù đó là niềm vui hay nỗi buồn thì tôi tin nó là kỉ niệm mãi mãi không bao giờ quên được.

Con người ta không thể cứ mải nhìn về phía trước, hướng tới tương lai mà không biết nhớ về quá khứ và nhìn vào hiện tại. Đối với tôi điều quan trọng nhất là phải biết trân trọng quá khứ, những kỉ niệm cũ luôn được tôi ghi nhớ và gìn giữ. Một trong những kỉ niệm mà tôi nghĩ rằng mình sẽ nhớ về nó suốt đời đó chính là ngày đầu tiên đi học.

Tôi vẫn nhớ như in ngày khai giảng năm đó vào một hôm trời nắng to, chiếc áo trắng tôi mặc dường như trắng sáng hơn và chiếc khăn quàng đỏ thắm hơn. Tôi chuẩn bị tươm tất xong xuôi đội cả mũ ca-nô trên đầu chỉ còn chờ mẹ đưa đến trường dự buổi khai giảng đầu tiên. Trên đường tới trường tôi không còn líu lo nói chuyện với mẹ như mọi ngày mà lại im lặng, một phần vì tôi mải tò mò suy nghĩ về những thứ sắp diễn ra trong buổi khai giảng, phần cũng vì tôi sợ, tôi lo lắng, bồn chồn khó tả. Đến cổng trường học tôi nhìn thấy một cảnh tượng thật khó tin, các bạn níu chân, níu tay mẹ rồi khóc oà không muốn vào trường, tôi chột dạ không biết tại sao lại như vậy, có gì đáng sợ bên trong trường học hay sao. Khi đó mẹ đã trấn tĩnh và bảo tôi rằng, “các bạn ấy sợ phải xa mẹ, sợ bị thầy cô mắng nhưng con yên tâm, thầy cô sẽ rất dịu dàng, quan tâm và chăm sóc cho con, con hãy học tập thật tốt rồi tan học mẹ lại đến đón”. Tôi tin mẹ và bước vào trường, cô giáo hỏi tên tôi rồi dẫn tôi đến tận ghế ngồi, các bạn nói chuyện với tôi rất vui khiến tôi quên bẵng đi cảm giác lo lắng ban đầu, tôi nhanh chóng làm quen và kết bạn với các bạn cùng lớp mình, khi đó tôi đã nghĩ đến những ngày tháng đi học thật vui vẻ.

Sau ngày đi học đầu tiên tôi nhận ra mình đã lớn hơn chút ít, đã hiểu chuyện và tự lập hơn, quãng đường đi học còn dài tôi sẽ phải cố gắng thật nhiều để không phụ lòng bố mẹ.

Đầu năm nay, dịch bệnh Covid diễn biến phức tạp nên chủ yếu thời gian chúng em được các thầy cô dạy học online và không phải đến trường. Thật may mắn rằng Việt Nam đã kiểm soát được dịch và cuộc sống trở lại như bình thường. Chính vì thế, việc quay lại trường trong ngày đầu tiên của năm học mới đối với chúng em vô cùng ý nghĩa.

Hơn nửa năm chỉ học ở nhà không được gặp thầy cô và bạn bè khiến em vô cùng buồn chán. Khi nhận được tin mùa thu này chúng em được quay lại trường học em đã rất vui mừng. Em cùng bố mẹ đi hiệu sách sắm sửa sách vở cẩn thận, chu đáo. Từng quyển sách, quyển vở được em bao bọc và dán nhãn thật đẹp đẽ. Em hồi hộp đếm từng ngày được gặp lại bạn bè và mái trường thân yêu.

Cuối cùng ngày ấy cũng đã đến, sau bữa cơm tối, bố mẹ dặn dò em kiểm tra lại sách vở đồ dùng, quần áo một lần nữa để ngày mai có thể đến trường thật tốt. Em ngồi khoanh tay trên bàn ngắm nhìn những quyển sách mới tinh được xếp ngăn nắp và suy nghĩ miên man. Không biết trong những tháng ngày qua các bạn đã thay đổi như thế nào; những cái cây bé xíu trong trường đã lớn thêm nhiều chưa; bao nhiêu câu hỏi vây quanh em vừa làm em háo hức, hồi hộp lại thêm trằn trọc khó ngủ.

Sáng ngày tựu trường em dậy sớm và được mẹ đưa đến trường. Trước cánh cổng rộng lớn đang mở ra trước mắt mình, em vẫy tay chào mẹ rồi bước vội vào trong. Hiện ra trước mắt em là một sân trường đông đúc, rộn rã tiếng cười đùa, trò chuyện của các bạn học sinh sau bao ngày gặp lại. Những hàng cây như lớn hẳn lên, chững chạc, cứng cáp hơn trước rất nhiều. Thoang thoảng là mùi sơn mới của những bức tường, những bộ bàn ghế lâu ngày không sử dụng được nhà trường tân trang lại.

Em từ từ bước đi, hít thở bầu không khí ở trường học đã lâu không được tận hưởng thì chợt có một cánh tay vỗ vào vai em. Hóa ra đó là cô bạn thân cùng lớp của em. Chà! Cậu lớn hơn nhiều đấy nhỉ. Chúng em cùng nhau trò chuyện tíu tít và bước đi đến lớp học của mình – cái cảm giác mà lâu lắm rồi mới có lại được vô cùng dễ chịu. Bước chân vào lớp học, các bạn tươi cười chào em; bạn nào cũng lớn hơn, đáng yêu hơn và vui vẻ hơn. Vì là ngày đầu tiên nên chúng em chưa phải học gì nhiều chỉ nghe cô giáo dặn dò và chuẩn bị cho buổi khai giảng ngày mai. Cô giáo từ từ bước vào lớp, trên tay cầm quyển sổ ghi chép tươi cười nhìn chúng em. Cô mặc chiếc áo dài trắng, khuôn mặt hiền từ, giọng nói nhẹ nhàng và có nụ cười tươi. Cô phổ biến chúng em về nội quy của lớp học và công tác chuẩn bị cho năm học mới. Chính sự tập trung và say mê của cô làm cho chúng em đắm chìm mà quên mất đi sự trôi chảy của thời gian.

Sau khi phổ biến xong nội quy lớp học và nội dung chương trình, cô trò chuyện cùng chúng em để hiểu nhau hơn. Buổi dặn dò kết thúc trong niềm hân hoan của cả cô và trò. Trở về nhà trong tâm trạng vui vẻ, em hi vọng đây sẽ là một năm học đầy may mắn và hứng khởi.

Mọi học sinh chúng ta đều gắn liền với biết bao kĩ niệm vui buồn của tuổi học trò. Đối với tôi có lẽ kỉ niệm về buổi tựu trường đầu tiên khi bước vào lớp 1 là ấn tượng sâu sắc nhất.

Sáng hôm sau, cũng như bao các bạn khác. Tôi cùng mẹ đi trên con đường dài và hẹp. Con đường này tôi đã thường xuyên qua nó. Nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Mọi cảnh vật đều có sự thay đổi lớn. Cánh đồng lúa, nay lạ hơn lúc trước, hình như nó vàng hơn mọi ngày thì phải. Hai hàng cây bên đường đu đưa trước gió như vẫy tay chào đón tôi tới trường.

Từ xa xa, phía sau những tán cây to, cổng trường đã dần dần hiện ra trước mắt tôi. Phía trên là tấm bảng to màu xanh, để tên trường. Khi đến trường, trước mắt tôi bây giờ là một khung cảnh hoàn toàn xa lạ,có rất nhiều bạn học sinh cũng được cha, mẹ đưa đến trường như tôi. Tôi cùng mẹ bước vào sân trường. Một ngôi trường đồ sộ với 3 dãy lầu hiện ra trước mắt tôi. Làm tôi tự nhiên cảm thấy mình trở nên bé nhỏ. Nên chỉ biết nắp sau lưng mẹ. Sân trường ngày càng đông học sinh hơn. Cũng là lúc tâm trạng tôi ngày càng hồi hộp và lo lắng. Tay tôi càng siết chặt lấy bàn tay mẹ. Mẹ cúi xuống vuốt tóc tôi. Bỗng tiếng trống trường vang lên.Tôi phải tạm biệt mẹ, tôi cùng các bạn xếp hàng vào lớp. Tôi im lặng, cúi đầu không dám nhìn cô giáo đang đứng ở trước cửa. Đầu tiên cô gọi tên tôi, tôi giật mình và bật khóc, làm các bạn khác cũng khóc theo. Cô hỏi tôi và hỏi:

– “Em tên Trâm Anh phải không ?”

Vừa nói tôi vừa khóc:

– “Dạ! phải”

Cô hỏi tiếp

– “Sao em lại khóc, lát nữa cũng được về nhà thôi mà”

– “Thôi con vào lớp đi! “

Rồi tôi bước vào lớp, các bạn đứng sau tôi cũng nín khóc. Rồi các bạn cũng bước vào. Lớp học rất sạch sẽ rộng rãi và thoáng mát.

Bàn ghế được xếp rất ngay ngắn. Cô bước vào lớp, giớI thiệu, sắp xếp chỗ ngồi và bầu bạn lớp trưởng của lớp. Vì thấp hơn các bạn khác nên tôi phải ngồi bàn đầu. Lúc này tôi đã bình tỉnh hơn, tôi còn làm quen được với bạn ở bên cạnh rồi nhiều bạn khác nữa. Tôi rất vui và kể cho mọi người nghe

Sau buổi học đầu tiên ấy tôi rất vui vì mình đã làm quen được với rất nhiều bạn. Tôi rất tự hào vì mình đã lớn, đã là học sinh lớp 1. Tôi phảI cố gắng học thật tốt để cho ông bà, cha mẹ, thầy cô vui lòng. Tôi giờ đã lớp tám rồi nhưng vẫn còn nhớ đến buổi tựu trường đầu tiên vào lớp một của tôi.

Một trời thu có nắng có gió, có những tà áo trắng tung tăng đến trường. Hôm nay, tôi chính thức bước vào lớp 8, đã sắp trở thành chị cả của trường. Cứ mỗi mùa tựu trường đến, mùa thu của tám năm trước lại ùa về, với những kỉ niệm buồn vui lẫn lộn của ngày đầu tiên đi học.

Đã tám năm rồi, nhưng tôi vẫn nhớ như in buổi sáng hôm ấy. Một cô bé ngày hôm qua vẫn còn khóc lóc đòi mua kẹo, hôm nay mặc áo sơ mi, quần bò và khoác chiếc cặp to hơn người đi đến trường. Con đường làng hôm ấy trong mát và mới mẻ đến lạ lùng. Có phải ai cũng đang nhìn tôi bằng con mắt khác không nhỉ? Phải rồi, vì hôm nay tôi đi học cơ mà. Cánh cổng trường đã hiện ra trước mặt rồi! Ngôi trường thật rộng quá, màu vàng hoà cùng nắng, màu xanh lẫn vào nền trời. Tôi cảm thấy hồi hộp đến lạ lùng, như bước qua cánh cổng kia, sẽ là cả một thế giới kì diệu mở ra. Tôi nắm chặt lấy tay mẹ không muốn buông, bởi trước mặt chỉ toàn là những người xa lạ không quen biết. Tôi sẽ cứ mãi chìm vào nỗi sợ hãi như vậy nếu như không có chuyện đó xảy ra…

Lúc ấy, đám học sinh lớp một của chúng tôi còn đang ngơ ngác lạ lẫm giữa sân trường. Tôi chỉ chực khóc, bởi tôi thấy nhớ nhà, nhớ mẹ vô cùng. Tôi lúng túng đến mức cứ vừa đi vừa cúi mặt xuống, đến nỗi đâm sầm vào một bạn nữ mà không hay. Cô bạn ấy cũng nhỏ nhắn, làn da bánh mật và có nụ cười rất tươi. Tôi giẫm vào chân bạn, chắc lúc ấy bạn phải đau lắm, vì tôi thấy bạn khẽ nhíu mày. Ríu rít xin lỗi, trong lòng tôi lại thấy xấu hổ vô cùng, vì ngày đầu tiên đã vụng về bất cẩn. Nhưng cô bạn lại nhoẻn miệng cười tươi tắn và nhẹ nhàng nói: “Không sao đâu cậu. Cậu chú ý hơn là được mà”. Giọng nói ấy thật ấm áp nhẹ nhàng, khiến tôi cũng an tâm trở lại và cười thật tươi.

Chúng tôi nhanh chóng làm bạn cùng nhau, cùng nhau đi khắp sân trường trong lúc chờ được gọi tên. Hỏi ra mới biết, bạn tên là Hân, cũng sẽ học cùng lớp với tôi. Có lẽ tôi đã tìm được người bạn đầu tiên rồi. Đang mải mê nói chuyện, bạn chợt hỏi:

– Sao khi nãy nhìn cậu buồn như vậy?

Tôi trả lời:

– Là vì tớ nhớ mẹ tớ, tớ muốn được trở về nhà.

Bỗng nhiên, mặt Hân bỗng trùng hẳn xuống, đôi mắt ướt như sắp khóc. Tôi lo lắng không biết mình có nói sai điều gì không, tại sao bạn lại buồn như vậy. Thì bạn nhẹ nhàng lắc đầu, giọng rầu rầu:

– Cậu thật may mắn vì được mẹ đưa đi học, có nhà để trở về. Cậu biết không, từ bé tớ đã mất cả cha mẹ, được gửi vào trại mồ côi. Hôm nay tớ cũng tự đi học một mình. Tớ mong gặp mẹ lắm mà không được đó! Mỗi lần nhìn ai đó được cha mẹ dẫn đi chơi công viên, chở đi học, tớ lại thấy tủi thân và khao khát gia đình. Có lẽ tớ là người bất hạnh nhất rồi!

Bạn khẽ đưa tay lau giọt nước mắt.

Tôi câm lặng không biết phải nói điều gì. Đến bây giờ, tôi mới nhận ra mình may mắn đến thế nào. Hạnh phúc thực sự là có một gia đình để yêu thương. Vậy mà đôi khi, tôi còn lãng quên, tôi giận dỗi mẹ vì không mua đồ chơi như tôi. Tôi lén nhìn sang Hân và thương bạn vô cùng. Vậy mà bạn vẫn vui vẻ, vẫn vượt lên trên tất cả để đến trường. Vậy có lí do gì để tôi không mạnh mẽ và cố gắng? Hai chúng tôi nhìn nhau thật lâu và nhoẻn miệng cười, nắm tay nhau vào lớp. Buổi tựu trường dường như ý nghĩa hơn tôi tưởng rất nhiều.

Tôi khẽ mỉm cười, quay trở lại hiện tại. Sau lần đó, tôi và Hân trở thành người bạn tri âm tri kỉ. Phần vì tôi thương bạn, muốn ở bên cạnh để bạn không cảm thấy buồn như trước nữa, phần vì bạn là người già dặn, đã lớn trước tuổi nên thường dạy tôi nhiều điều có ích trong cuộc sống. Đến bây giờ, tôi vẫn nhớ về câu nói của Hân, và chính bạn cũng đã dạy cho tôi thật nhiều điều. Dạy cách trân trọng những giá trị giản dị trong cuộc sống, cách vượt lên hoàn cảnh để sống thật mạnh mẽ. Tôi tin rằng, đó sẽ là hành trang theo tôi suốt cuộc đời này.

Đó là câu chuyện về ngày đầu tiên đi học của tôi, đánh dấu tôi đã trưởng thành thực sự. Các bạn hãy nhớ rằng, những bài học đầu đời mới đáng quý và khắc ghi sâu nhất!

Trong cuộc đời, kiến thức rất quan trọng trong đời sống của chúng ta. Nhưng trong chúng ta không phải ai ai cũng đều được đi học cả đâu mà có rất nhiều người nghèo khó không có điều kiện để đi học. Và tôi nằm trong con số may mắn những người được đi học, được bồi dưỡng kiến thức và những bài học đạo đức thú vị. Vì vậy, những kỉ niệm về ngày đầu tiên đi học đối với tôi là những giây phút tuyệt vời, ấn tượng và khó phai trong lòng tôi.

Và tôi còn nhớ, tôi vô tình làm lem mực vào một cuốn vở. Tôi khóc còn nhiều hơn cả lúc làm rách bìa bao. Sau đó, chị tôi an ủi một vài phút sau tôi mới thôi khóc. Tập vở, sách giáo khoa, bút viết, cặp táp đều đã sẵn sàng. Đến tối, tôi không tài nào ngủ được, phải một lúc sau tôi mới thiếp đi. Đến sáng, sau khi đã thức dậy làm vệ sinh cá nhân xong thì ba chở tôi đến trường, còn đưa cho tôi một quả bóng xinh xinh có hình mặt cười. Tôi thấy các em học sinh đến trường với gương mặt sáng sủa, vui vẻ. Tôi cảm thấy bản thân tự tin hơn hẳn khi có bộ đồng phục tuyệt đẹp trên người mình. Tôi thấy trường tôi vừa rộng rãi mà vừa đẹp đẽ nữa. Những cái cây cao cao có màu sắc đỏ thắm. Có bốn cái xích đu ở bốn góc sân trường.

Tôi giật thót tim khi nghe thấy tiếng trống khai trường vang lên “tùng… tùng… tùng”. Cả trường bắt đầu xếp hàng ngay ngắn trên sân. Và không biết va vào đâu mà bong bóng tôi mang theo bị bê. Tôi cố gắng nén lại không khóc lên. May mắn là có một bạn kế bên chia bớt cho tôi một vài bông hoa để đi diễu hành. Sau khi cuộc diễu hành kết thúc, cô giáo chủ nhiệm đón học sinh lên lớp và cái bạn chia hoa khi nãy lại ngồi bên cạnh tôi. Mùi hương kì lạ của tập vở mới bỗng xông lên trong lớp. Đến giờ ra chơi dường như chỉ có khoảng mười lăm phút. Tôi ngồi trong lớp, không biết chơi với ai. và chơi trò gì nhưng có một đám bạn đến rủ tôi chơi. Tôi cảm thấy xúc động làm sao! Khi ra về, tôi vẫy tay chào tạm biệt các bạn mới của mình và lên xe. Bóng các bạn xa dần và tôi cảm thấy trong lòng mình dâng lên một cảm xúc xao xuyến lạ thường.

Ngày đầu tiên đi học của tôi là như thế đó. Những kỉ niệm tuyệt vời ấy luôn đọng lại trong trí óc của tôi và cũng những kỉ niệm ấy thúc giục tôi vào việc học tốt hơn. Vì vậy, tôi quyết tâm học tốt để không phụ lòng cha mẹ.

Đã mấy năm trôi qua rồi, bây giờ tôi đã khôn lớn. Như thể nghe thấy tiếng trống vang lên buổi tựu trường đầu tiên của tôi và tôi cũng tưởng rằng điều đó như vừa mới xảy ra thôi.

Vào tối hôm trước khi buổi tựu trường đầu tiên của tôi, ba tôi chuẩn bị cặp sách, mẹ thì ủi quần áo để chuẩn bị cho tôi đi học vào ngày mai. Mọi thứ đều đã được chuẩn bị sẵn sàng. Tôi thì háo hức đợi đến ngày mai vì đó cũng chính là sự tự hào của bố mẹ. Mong ước của họ là thấy con mình được cấp sách đến trường. Sáng hôm đó, tôi thức dậy thật sớm và vệ sinh cá nhân xong, tôi tự mặc quần áo của mình, đeo cặp sách sẵn sàng. Quang cảnh trên con đường thật kì lạ, khác hẳn so với trước đây, mọi thứ xung quanh đều được thay đổi. Từ những bãi đất trống đã thành những ngôi nhà lớn, từ những con đường hẹp đã trở thành một con đường rộng rãi, thoáng mát. Khi đến trường, tôi thấy ngôi trường “ôi chao, sao rộng lớn quá vậy? kèm theo đó là một sự ngạc nhiên trên gương mặt của tỏi. Tôi bị choáng ngợp và không dám bước vào nhưng khi thấy ai ai cũng đang vui vẻ bước vào thì tôi lại suy nghĩ lại, bước qua cánh cổng đó là một thế giới kì diệu sẽ mở ra. Thế giới kì diệu ấy sẽ giúp chúng ta khôn lớn, biết được những kiến thức cần có và quen biết được nhiều bạn bè mới, thầy cô mới, mang đến cho ta biết bao điều thú vị. Lúc xếp hàng, ai ai cũng đều đứng nghiêm chỉnh để đi vào lớp. Bước vào lớp học, tôi thấy rất tuyệt vời vì bàn ghế được sắp xếp ngăn nắp, gọn gàng. Các lớp khác cũng đều như vậy. Tôi nghe nói bên Nhật, ngày toàn dân đưa trẻ đến trường, ai ai cũng tạm thời gác công việc của mình để tham gia buổi lễ khai giảng năm học mới. Đối với người Nhật, đó chính là ngày quan trọng nhất. Tới khi gặp cô giáo chủ nhiệm, tôi cứ sợ rằng cô sẽ rất nghiêm khắc và rất dữ cho tới khi qua tiết học đầu tiên thì tôi mới biết rằng cô là một cô giáo rất nhiệt tình trong việc giảng dạy, hiền lành, yêu thương và tận tình giúp đỡ chúng tôi trong việc học tập. Sau khi học hết ngày đầu tiên thì tôi lại mong ước ngày hôm sau mau mau đến để tôi được đi học và khám phá nhiều điều thú vị hơn nữa.

Suốt mấy năm qua, kí ức đó sẽ luôn luôn ghi khắc trong tim tôi. Nhớ lắm kí niệm tuổi học trò ơi!

Viết Bài Văn Nghị Luận Về Một Vấn Đề Xã Hội (Dàn Ý + 4 Mẫu) Những Bài Văn Hay Lớp 10

Đề 1: Suy nghĩ về những tấm gương vượt qua số phận của chính mình.

Đề 2: Viết bài văn nghị luận bàn về sức mạnh của ý chí con người trong cuộc sống nhân học các đoạn trích Hê-ra-clét đi tìm táo vàng và Chiến thắng Mtao Mxây

Đề 1: Suy nghĩ về những tấm gương vượt qua số phận của chính mình.

1. Mở bài: Dẫn dắt và giới thiệu về vẻ đẹp của những con người vượt qua số phận của chính mình

2. Thân bài:

+ Giải thích khái niệm ý chí, nghị lực và sức mạnh của phẩm chất tinh thần

+ Lí giải vì sao ý chí, nghị lực có thẻ trở thành sức mạnh giúp con người vượt qua những khó khăn, thử thách tưởng như không thể vượt qua

+ Chứng minh: Nêu lên và phân tích các ví dụ trong cuộc sống và trong văn học về những con người đã vượt qua số phận, đã chiến thắng nhờ có ý chí mạnh mẽ

3. Kết luận: khẳng định và đánh giá khái quát lại vấn đề

Mỗi chúng ta khi sinh ra đời chúng ta không thể tự lựa chọn cha mẹ hay số phận cho chính mình được. Tạo hóa cho mỗi con người một số phận khác nhau. Có những người vừa sinh ra đã gặp nhiều may mắn hạnh phúc có ba mẹ yêu thương, sinh ra trong một gia đình giàu có sung túc. Ngược lại có những người vừa sinh ra đã thiệt thòi bởi hoàn cảnh của gia đình khó khăn, hoặc bị ba mẹ bỏ rơi không cha không mẹ, có những người sinh ra đã không được khỏe mạnh bằng chúng bạn của mình, thiệt thòi hơn các bạn rất nhiều. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào thì những con người chúng ta đều cố gắng vươn lên trong cuộc sống. Có những người dù bị thiệt thòi trong cuộc sống nhưng họ không vì thế mà buông xuôi cuộc đời mình mà luôn cố gắng vươn lên trong cuộc sống để không thua kém bạn bè. Những con người đó thật sự là tấm gương sáng để cho chúng ta noi theo, thái độ sống tích cực của họ.

Trong xã hội của chúng ta còn nhiều con người chịu nhiều thiệt thòi đó họ không đầu hàng số phận không chấp nhận mình sẽ là gánh nặng của gia đình và xã hội họ cố gắng vươn lên trong cuộc sống của chính mình quả là một điều thật sự đáng ngưỡng mộ. Như thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí một con người đã chịu rất nhiều trong cuộc sống khi sinh ra đã bị liệt hai tay. Nhưng bằng nghị lực phi thường của mình thầy đã cố gắng học viết chữ bằng chân. Những ngày đầu tập viết những nét chữ viết bằng tay còn khó khăn thì những nét chữ bằng chân vô cùng khó. Nhưng thầy Nguyễn Ngọc Kí vẫn kiên nhẫn tập viết mỗi ngày để rồi thầy có thể theo đuổi sự nghiệp học hành của mình. Rồi thầy Nguyễn Ngọc Kí đã thi đỗ đại học rồi trở thành một thầy giáo. Một thầy giáo dạy giỏi viết chữ bằng chân. Đó chính là một nỗ lực phi thường của mỗi con người.

Những con người thiệt thòi, khi họ sinh ra đã không được lành lặn nhưng chính nhờ ý chí, nghị lực sống phi thường của mình mà họ đã vươn lên trở thành những con người thành đạt không hề thua kém những người lành lặn. Thậm chí, nhiều bạn trẻ khỏe mạnh lành lặn nhưng sự nỗ lực trong cuộc sống lại không. Họ để cho những thói hư tật xấu trong cuộc sống cám dỗ mình rồi trở thành những kẻ tội phạm gây ra những tội ác ghê rợn. Những bạn trẻ này thật sự là gánh nặng của xã hội, họ thật sự không biết tận dụng những lợi thế mà cuộc sống, tạo hóa đã ban tặng cho mình sống hoài sống phí tuổi trẻ tương lai của mình. Trong khi đó nhiều người vừa sinh ra do những ảnh hưởng của chất độc màu da cam, hoặc do tạo hóa nên khi vừa chào đời họ đã thiệt thòi, nhưng họ vẫn luôn sống có ích, có ước mơ hoài bão của mình.

Cái đáng quý nhất của mỗi con người này chính là nghị lực sống kiên cường, phi thường của họ. Dù cuộc sống có nhiều khắc nghiệt nhưng họ vẫn vươn lên trong cuộc sống với những ước mơ, hoài bão vô cùng lớn lao. Những con người này thường phải nỗ lực gấp hai, ba lần thậm chí mười lần so với người khỏe mạnh bình thường nhưng họ lại tạo ra những kỳ tích mà người khỏe mạnh bình thường cũng không làm được. Dù tạo hóa không công bằng với họ nhưng họ không trông chờ vào lòng từ bi, thương hại của người khác mà luôn chủ động trong cuộc sống của mình. Thậm chí họ còn tạo nên nhiều thành công khiến cho người khác phải nể phục. Họ sinh ra có thể thiếu đi một bộ phận nào đó trên cơ thể nhưng bằng bàn tay khối óc của mình họ đã kiên cường vươn lên trong cuộc sống. Họ quyết khẳng định vị trí của mình không làm gánh nặng cho gia đình và xã hội.

Chính trái tim khối óc, ý chí của con người đã chiến thắng mọi thứ trong cuộc sống. Những con người có nghị lực sống thì không có khó khăn nào có thể làm họ gục ngã.

Mỗi chúng ta được xuất hiện trên cõi đời với hình hài khỏe mạnh là một diễm phúc. Thế nhưng, không phải ai cũng có may mắn sở hữu một cơ thể lành lặn. Họ phải chịu những khiếm khuyết và những di chứng bệnh tật đến suốt đời. Tuy nhiên, những khiếm khuyết đó không thể đánh gục được họ. Thay vì chấp nhận và đầu hàng với số phận của mình, họ luôn tìm cách vươn lên trong cuộc sống như những bông hoa hướng dương luôn hướng về ánh mặt trời.

Vượt lên số phận của chính mình là dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, nghịch cảnh trong cuộc sống, luôn cố gắng, nỗ lực hoàn thiện bản thân, biến những khiếm khuyết của bản thân thành điểm mạnh. Những tấm gương vượt lên trên số phận thường được ví như những cây xương rồng trên sa mạc. Dù đất có cằn cỗi, khí hậu có khắc nghiệt thì xương rồng vẫn mạnh mẽ sống và vươn lên. .

Những nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần đã rèn luyện cho họ ý chí kiên cường, không chịu khuất phục trước gian nan để trở thành một cây xương rồng gai góc. Họ thường phải đối diện với những ánh mắt khinh bỉ, coi thường của mọi người khi sinh ra đã bị thiếu một bộ phận trên cơ thể. Chính vì vậy, họ buộc phải đối diện với nỗi sợ hãi trong chính bản thân để vượt lên trên số phận. Bên cạnh đó, sự giúp sức, động viên của gia đình, người thân chính là động lực to lớn giúp họ có thể đứng vững bằng sức lực của mình.

Họ là những thanh âm trong trẻo, nghị lực cất lên từ số phận bất hạnh và đau khổ nhưng vẫn giữ được tinh thần lạc quan, tràn đầy sức sống. Họ không nản chí, đầu hàng trước mọi khó khăn, luôn kiên định với mục tiêu mình đề ra và nỗ lực tìm cách khắc phục những yếu điểm của bản thân để tiếp thêm sức mạnh cho những mảnh đời kém may mắn. Và hơn hết, họ tự ý thức sâu sắc về số phận và quyết tâm vượt lên hoàn cảnh để tạo dựng một cuộc sống tốt đẹp cho bản thân, gia đình, cộng đồng. .

Có lẽ, câu chuyện cảm động về thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký đã khiến cho bao bạn đọc phải cảm thấy khâm phục vì tài năng và sức mạnh phi thường của thầy. Thầy bị bại liệt cả hai tay từ nhỏ, thuở đi học thường bị bạn bè chê cười nhưng thầy đã dùng đôi chân của mình để “viết số phận”, chẳng những vậy mà thầy còn viết chữ rất đẹp. Chắc hẳn các bạn đã từng nghe qua câu chuyện “Người hùng chinh phục đỉnh Phan – xi – păng cùng chiếc nạng gỗ”? Đó chính là anh Nguyễn Sơn Lâm, một người mắc hội chứng loãng xương từ nhỏ, bị teo cả hai chân nhưng đã trở thành một diễn giả nổi tiếng và đã chinh phục được đỉnh Phan – xi – păng cùng chiếc nạng gỗ của mình. Chúng ta là một người khỏe mạnh nhưng việc chinh phục “nóc nhà Đông Dương” là một điều rất khó khăn vì nó đòi hỏi con người phải có sức khỏe và sự kiên trì. Anh Nguyễn Sơn Lâm đã tạo nên chiến tích của chính cuộc đời mình, anh chỉ nặng 27 kg và không thể di chuyển bằng hai chân như người bình thường nhưng anh đã làm nên một điều phi thường.

Vượt lên trên số phận của chính mình sẽ giúp cho bạn trở thành một phiên bản tốt nhất có thể, từ đó thấy được rằng này cuộc sống này sẽ vô cùng ý nghĩa và đáng sống. Những tấm gương vượt lên số phận của chính mình là những người truyền lửa, họ đem đến cho chúng ta niềm tin, niềm hi vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Khi bạn dám bước ra khỏi vùng an toàn của mình cũng chính là lúc bạn thấy rằng chân trời phía trước luôn rộng mở để chào đón bạn khám phá.

Thế nhưng, bên cạnh những tấm gương sáng về nghị lực vượt lên trên số phận của chính mình thì vẫn còn một bộ phận nhỏ những người sống không có ý chí nghị lực, thấy khó khăn đã vội chùn bước. Chúng ta cần phê phán những người luôn giữ trong mình những suy nghĩ tiêu cực, không dám hành động và sống không có ước mơ.

Cuộc sống của chúng ta luôn ẩn chứa vô vàn điều thú vị cho nên bạn hãy thật mạnh dạn để thoát ra khỏi chiếc vỏ bọc của chính mình. Hãy trở thành người dám nghĩ dám làm, dám ước mơ thì chắc chắn bạn sẽ nhận được những thành quả xứng đáng. Bạn cần cảm thấy may mắn khi mình là một người “bình thường” cho nên nhất định không nên kì thị mà phải biết giúp đỡ những người kém may mắn hơn trong cuộc sống. Bạn hãy vạch ra cho mình những mục tiêu cần hoàn thành và không được ỷ lại vào người khác khi bản thân có thể làm được, khi đó thành công sẽ mỉm cười với chính bạn.

“Không có số phận, chỉ có những quyết định của con người làm nên số phận mà thôi”. Quả đúng là như vậy, những tấm gương vượt lên số phận chính mình chính là những tấm gương sáng mà chúng ta cần noi theo. Chính những suy nghĩ và hành động đúng đắn của những tấm gương vượt lên trên số phận đã giúp họ khẳng định giá trị của bản thân mình rằng họ không thua kém bất kì ai trong thế giới rộng lớn này.

Đề 2: Viết bài văn nghị luận bàn về sức mạnh của ý chí con người trong cuộc sống nhân học các đoạn trích Hê-ra-clét đi tìm táo vàng và Chiến thắng Mtao Mxây

I Mở bài:

– Giới thiệu vấn đề xã hội cần bàn luận: Sức mạnh ý chí của con người trong cuộc sống.

II. Thân bài:

1. Giải thích:

– Rút ra vấn đề nghị luận từ các đoạn trích.

– Ý chí: là nghị lực vươn lên trong cuộc sống, khi gặp khó khăn cũng không lùi bước, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành mục tiêu.

– Sức mạnh ý chí có vai trò quan trọng trong cuộc sống.

2. Bàn luận về sức mạnh ý chí của con người:

– Biểu hiện của người có sức mạnh ý chí:

Người có sức mạnh ý chí là người luôn lạc quan trong cuộc sống, khi gặp khó khăn họ sẽ tìm cách để vượt qua những khó khăn, thử thách chứ không chịu đầu hàng.

Người có sức mạnh ý chí sẽ không ngừng học hỏi, luôn nỗ lực để hoàn thiện bản thân.

– Dẫn chứng về người có sức mạnh ý chí:

Trong tác phẩm văn học: nhân vật Hê-ra-clét và nhân vật Đăm Săn.

Trong đời sống: thầy Nguyễn Ngọc Ký.

– Ý nghĩa của sức mạnh ý chí:

Sức mạnh ý chí có vai trò quan trọng trong việc khẳng định bản thân và sự thành công của mỗi người.

Sức mạnh ý chí giúp con người sống có mục tiêu, hành động rõ ràng và luôn luôn biết cố gắng để đạt được mục tiêu.

3. Phê phán:

– Phê phán những người hèn nhát, dám nghĩ nhưng không dám làm.

– Phê phán những người không có ý chí, nghị lực, thấy khó khăn đã vội nản chí.

4. Bài học:

– Cần phải trau dồi, rèn luyện bản thân để không bị gục ngã khi gặp khó khăn, thất bại.

– Cần có thái độ sống tích cực, biết vươn lên để khẳng định mình.

III. Kết bài:

– Khẳng định và đánh giá khái quát lại vấn đề đã bàn luận: Vai trò quan trọng của sức mạnh ý chí đối với mỗi con người.

Sống trong đời, mỗi người có một hoàn cảnh. Tuy nhiên, chẳng mấy ai may mắn được hoàn cảnh trải cho tấm thảm nhung để dễ dàng bước đến thành công. Hoàn cảnh luôn tác động lớn đến mỗi người. Nếu ai đó sinh ra chẳng may gặp điều rủi ro, bất hạnh họ thường so bì với kẻ khác và cảm thấy bất công. Khi gặp thất bại, họ gục ngã và đổ tội cho số phận. Thật ra, chỉ có nghị lực của mỗi người mới là nhân tố cốt lõi quyết định sự thành công của con người.

Nghị lực là một năng lực tinh thần. Nó tác động đến suy nghĩ, cách làm việc của mỗi người. Còn thành công là kết quả làm việc. Kết quả đó có được là nhờ dùng phương tiện lương thiện để đạt mục đích. Trong cuộc sống, ai cũng phải có mục đích của riêng mình, dù lớn nhỏ miễn sao không ti tiện. Để đạt được mục đích, con người phải có nghị lực để thực hiện chứ không thể trông chờ vào may mắn, hay phụ thuộc vào hoàn cảnh.

Hiển nhiên ta thừa nhận có những kẻ thành công dựa vào hoàn cảnh may mắn. Đó là những kẻ từ khi sinh ra đã được cha mẹ chăm lo đầy đủ, có sự giáo dục hoàn hảo. Họ được tạo mọi điều kiện để học hành, rèn luyện nên có tri thức, sức khỏe cần thiết. Lớn lên học có thể đỗ vào các trường đại học rồi ra trường được cha mẹ cho vốn để làm ăn, mở công ty, xưởng sản xuất… từ đó mà phát triển và làm ra của cải giàu có. Những người thành công như vậy vẻ vang gì đâu? Bất kỳ ai nằm trong hoàn cảnh đó mà chẳng thành công được. Chỉ có những người từ nghịch cảnh vươn lên để tạo dựng sự nghiệp mới thật là đáng nể. Cuộc đời vẫn thường chất chứa bao nhiêu sóng gió, nhiều người gặp những hoàn cảnh rủi ro, đầy gian truân, trở ngại. Thế nhưng họ vẫn vươn lên và đạt những thành công rực rỡ, có những người được cả thế giới biết đến.

Ta có thể kể đến Macxim Gorki. Tuổi thơ ông cũng chẳng êm đềm như bao đứa trẻ khác. Chẳng được học hành đến nơi đến chốn, lại phải bươn chải kiếm sống, đối chọi với một nghị lực mạnh mẽ vượt qua mọi trở ngại để cuối cùng trở thành một nhà văn Nga vĩ đại, mọi người ngưỡng mộ. Ngoài ra còn rất nhiều tấm gương điển hình như như thế. Bà Helen Keller hồi hai mươi tuổi bị bệnh rồi hóa mù, điếc. Vậy mà bà vẫn vượt lên số phận, học rộng hiểu sâu. Bà viết được bảy quyển sách, đi diễn thuyết khắp Châu Âu và Châu Mĩ, được cả thế giới biết đến. Hay hầu hết những ông vua thép, vua dầu lửa, vua xe hơi… những thành công của họ thì bất kì ai trong chúng ta cũng phải nghiêng mình kính nể. Đó là những con người có nghị lực phi thường. Nhờ đó mà họ mới thành công như vậy.

Người có nghị lực luôn có thể chuyển rủi thành may, chuyển họa thành phúc. Chẳng khi nào họ chịu khuất phục số phận và đổ lỗi thất bại của mình cho cái “”số xấu” như nhiều kẻ vẫn làm. Họ luôn biến nghịch cảnh thành sức mạnh và động lực mạnh mẽ để đẩy họ đến thành công lớn. Nếu như không bị mù thì Milton chắc gì trở thành một thi hào muôn thuở, nếu Beethoven không bị điếc thì tài nghệ của ông chưa chắc đạt đến mức tuyệt đỉnh. Ông Ben Fortson bị tai nạn xe hơi, cụt hai chân nhưng không cho đó là nghịch cảnh. Ông ‘tận dụng’ điều đó để dành thời gian nằm một chỗ đọc sách. Ông đọc rất nhiều sách về kinh tế, chính trị, xã hội và trở thành một nhà bác học có tài hùng biện rồi được bầu làm thống đốc một tiểu bang của Mỹ. Như vậy, rõ ràng nhờ có nghị lực họ có thể vượt qua tất cả để đến thành công họ mong muốn.

Nghị lực của con người không phải trời sinh ra mà có, nó xuất phát và được rèn luyện từ gian khổ của cuộc sống. Người xưa nói: “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời” là vậy. Khi người ta bị hiếp đáp nghèo khó, tủi nhục người ta sinh ra nghị lực và tận lực quyết tâm vượt qua số phận để cải thiện đời sống. Những người sống trong nhung lụa, giàu sang cần gì chẳng có, nên họ chẳng phải lao tâm vào việc gì mà cần nghị lực. Nghị lực của họ yếu dần và có thể mất đi. Khi gặp thất bại khó khăn họ thường sụp đổ nhanh chóng và bỏ cuộc sớm. Vậy nên muốn có nghị lực ta phải rèn luyện, đi từ gian khó mà lên. Trời không lấy hết đi của ai thứ gì, nghị lực là tài sản lớn nhất và vô giá mà cuộc sống ban tặng cho người bị cuộc sống lấy đi những may mắn.

Để rèn luyện nghị lực, ta phải rèn ở ba phương diện năng lực, đó là: suy nghĩ, quyết định và hành động. Để được gọi là người có nghị lực ta phải đạt mức: suy nghĩ thông sâu, sáng kiến; tinh thần quyết đoán và hành động bền bỉ, tự chủ. Những đức tính này phải trung hòa, nếu thái quá sẽ có hại cho nghị lực. Có nhiều yếu tố tác động đến nghị lực. Chẳng hạn, sự hiểu rộng, biết nhiều giúp ta suy nghĩ chín chắn, thông sâu; tình cảm nồng nhiệt giúp ta quyết định màu và bền chí hành động; hoàn cảnh xã hội – lời khen chê của người khác làm tăng giảm nghị lực… Ta phải dựa vào những điều đó để điều tiết việc làm và rèn nghị lực sống. Bắt đầu từ những việc nhỏ nhất như thay đổi những thói quen xấu mà lâu nay ta vẫn chưa làm được đến những việc lớn hơn.

Advertisement

Khi đã có nghị lực con người đối chọi với khó khăn một cách dễ dàng hơn, có thể vượt qua được mọi thử thách của cuộc sống một cách đơn giản hơn. Người có nghị lực lớn được xem là người “bị định mệnh thử thách”, họ luôn tỏ ra xuất chúng khi vượt qua trở ngại, thậm chí còn thích đương đầu với nó. Thành công của họ là từ chính họ làm nên vì vậy nó không phụ thuộc và bất kì hoàn cảnh nào. Những thành công đó thật vẻ vang và đáng tự hào.

Vậy nên muốn thành công thì không thể thiếu nghị lực. Đừng sợ trở ngại, vì chính nó là thứ để ta rèn nghị lực sống của mình. Phải đương đầu với thử thách và thất bại thì mới đủ nghị lực để đạt đến thành công trong cuộc sống.

“Chỉ cần có ước mơ đủ lớn, ý chí sẽ đưa bạn đến thành công”. Quả đúng là như vậy, khi bạn dám ước mơ, dám đặt ra mục tiêu lý tưởng cho mình thì chắc chắn ý chí sẽ là liều thuốc tiếp thêm sức mạnh để bạn chạm tay tới cánh cửa thành công. Sau khi học xong hai văn bản “Hê-ra-clét đi tìm táo vàng” và “Chiến thắng Mtao Mxây” đã cho ta thấy rằng sức mạnh ý chí đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi con người.

Ý chí không phải từ khi sinh ra chúng ta đã sở hữu nó mà ý chí được sinh ra trong quá trình chúng ta rèn luyện bản thân. Ý chí là nghị lực vươn lên trong cuộc sống, khi gặp khó khăn cũng không lùi bước, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành mục tiêu. Sức mạnh ý chí sẽ giúp cho con người vượt qua khó khăn một cách dễ dàng hơn và nhận được sự kính phục từ mọi người.

Người có sức mạnh ý chí là người luôn lạc quan trong cuộc sống, khi gặp khó khăn họ sẽ tìm cách để vượt qua chứ không chịu đầu hàng. Dẫu biết trên đời này không có ai là hoàn hảo nhưng chúng ta đều có thể cố gắng, trau dồi tri thức, làm đẹp cho bản thân để trở thành một phiên bản tốt nhất. Trong văn học, ta bắt gặp một Hê-ra-clét là người người phàm nhưng lại mang ý chí, sức mạnh phi thường. Sức mạnh ý chí chính là động lực giúp Hê-ra-clét chiến thắng các vị thần trong các cuộc giao đấu, vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đem táo vàng về cho nhà vua. Bên cạnh đó, nhân vật Đăm Săn trong “Chiến thắng Mtao Mxây” cũng là người anh hùng mà chúng ta đáng ngưỡng mộ. Đăm Săn đã chiến đấu oanh liệt để cứu vợ khi bị Mtao Mxây bắt vợ và trở thành tù trưởng đáng kính của buôn làng. Không chỉ trong văn học, ở cuộc sống đời thường ta vẫn luôn bắt gặp những tấm gương có ý chí, nghị lực phi thường. Chắc hẳn mỗi chúng ta đều nhớ câu chuyện về người thầy Nguyễn Ngọc Ký. Thầy Nguyễn Ngọc Ký bị bại liệt cả hai tay nhưng bằng một sức mạnh phi thường thầy đã học viết bằng chân và trở thành một người thầy giáo đáng kính. Có lẽ, những khiếm khuyết trên cơ thể cũng không thể làm khó được thầy bởi thầy luôn nuôi trong mình một ngọn lửa tràn đầy nhiệt huyết, một ngọn lửa của ý chí vững vàng. Bởi vậy, sức mạnh ý chí có vai trò vô cùng to lớn và quan trọng trong việc khẳng định bản thân và sự thành công của mỗi người. Sức mạnh ý chí giúp con người sống có mục tiêu, hành động rõ ràng và luôn luôn biết cố gắng để đạt được mục tiêu. Sức mạnh ý chí còn giúp cho con người đứng vững trước những phong ba, bão táp của cuộc đời.

Bên cạnh những tấm gương về sức mạnh ý chí thì vẫn còn tồn tại một bộ phận nhỏ những người không nhận ra tầm quan trọng của sức mạnh ý chí. Thật đáng phê phán những người hèn nhát, dám nghĩ nhưng không dám làm, những người không có ý chí, nghị lực, thấy khó khăn đã vội nản chí, có lối sống ích kỉ và chỉ biết dựa dẫm vào người khác để đạt được mong muốn.

Để cho cuộc sống của chúng ta tươi đẹp hơn và để cho mỗi ngày trôi qua là một ngày ý nghĩa thì mỗi chúng ta cần trau dồi, rèn luyện bản thân để không bị gục ngã khi gặp khó khăn, thất bại. Bên cạnh đó, chúng ta cần chọn cho mình một thái độ sống tích cực, biết vươn lên để khẳng định chính mình.

Sức mạnh ý chí đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự thành công của mỗi người. Dù bất cứ trong hoàn cảnh nào, khi bạn vấp ngã hay gặp khó khăn thì sức mạnh ý chí sẽ là nút gỡ giúp bạn vượt qua mọi trở ngại. Do vậy, bạn hãy tự tin khẳng định chính mình và bước ra khỏi “vùng an toàn” của mình để đem lại những năng lượng tích cực cho chính mình và mọi người xung quanh.

Văn Mẫu Lớp 9: Cảm Nhận Về Tình Bà Cháu Trong Bài Bếp Lửa (Sơ Đồ Tư Duy) 2 Dàn Ý & 13 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất

Cảm nhận về tình bà cháu trong bài Bếp Lửa hay nhất

Sơ đồ tư duy Cảm nhận về tình bà cháu trong Bếp lửa

Dàn ý cảm nhận về tình bà cháu trong bài Bếp Lửa (2 mẫu)

Cảm nhận tình bà cháu trong bài thơ Bếp lửa ngắn gọn

Cảm nhận về tình bà cháu trong bài thơ Bếp Lửa (12 mẫu)

Sơ đồ tư duy Cảm nhận về tình bà cháu trong Bếp lửa

Dàn ý cảm nhận về tình bà cháu trong bài Bếp Lửa

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Bằng Việt, tác phẩm “Bếp lửa”, tình bà cháu trong bài thơ Bếp lửa.

2. Thân bài

a. Tình cảm của bà dành cho cháu:

– Cụm từ “ấp iu nồng đượm”: chỉ sự yêu thương của bà.

→ Hình ảnh của bà xuất hiện cùng bếp lửa chứa chan yêu thương.

– Những kỉ niệm về tuổi thơ gian khó của cháu đều gắn liền với bà:

Bà thay cha mẹ nuôi cháu lớn khôn trong những năm tháng đói khát nhất của đất nước: “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói/ Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”.

Bà còn dạy bảo cháu nên người “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”

Một loạt những hình ảnh về bà được liệt kê cùng với điệp ngữ “bà” và các động từ “dạy, bảo, chăm”: tái hiện hình ảnh của bà đang dạy bảo cháu trưởng thành.

– Bà tiếp thêm sức mạnh cho cháu vững vàng, thêm niềm tin vào tương lai ngay cả lúc khó khăn, cơ cực nhất.

b. Tình cảm của cháu dành cho bà:

– Cháu thương bà khó nhọc, vất vả cả một đời, hy sinh cho cháu: “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”:

“Nắng mưa”: những khó khăn, vất vả, tần tảo, gian khó trong cuộc đời bà.

Từ láy “lận đận”: cho thấy sự hy sinh, những cực nhọc mà bà phải chịu suốt một đời.

– Nhưng bà vẫn là người giữ lửa và truyền ngọn lửa cho thế hệ sau.

– Khi đi xa, nhưng cháu luôn nhớ về bà.

c. Đánh giá chung:

Tình bà cháu được xây dựng qua những dòng hồi tưởng, suy ngẫm về bà.

3. Kết bài

Khẳng định lại ý nghĩa của tình bà cháu.

……

Cảm nhận tình bà cháu trong bài thơ Bếp lửa ngắn gọn

Bếp lửa là bài thơ được sáng tác bởi tác giả Bằng Việt trong những năm đầu 1963, tác giả đã có những kỉ niệm không thể quên cùng người bà, những năm tháng được bà che chở yêu thương, nuôi nấng đến ngày trưởng thành.

Tác giả đã có những hồi tưởng bếp lửa ấm áp giữa cái lạnh “chờn vờn sương sớm”, người bà nhóm bếp lửa lên bao vất vả, khó khăn. Cháu thương bà biết mấy nắng mưa, những đêm hôm trái gió trở trời người cháu càng thương bà của mình nhiều hơn.

Dòng hồi tưởng của tác giả bắt đầu từ những năm tháng khổ cực của nạn đói năm 1945, sự nghèo đói len lỏi vào mọi nơi của xã hội. Lúc này cháu ở cùng bà quen thuộc chính là cảm giác cay nơi sống mũi vì khói, chính điều này đã làm cho người cháu nhớ đến bà nhiều hơn.

Vì hoàn cảnh mẹ cha phải đi công tác xa, người bà một tay nuôi nấng người cháu, chăm lo từng miếng ăn giấc ngủ. Trải qua những lần giặc đốt cháy nhà bà vẫn vững lòng giúp người cha nơi tiền tuyến vẫn an tâm công tác, người bà giàu lòng hi sinh, sự chịu khó đó chính là những hình ảnh đại diện cho nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam cần cù, yêu thương và nhân hậu.

Mỗi lần bếp lửa nhóm lên lại không đơn thuần là nguyên liệu mà còn là ngọn lửa yêu thương trong lòng bà, người bà còn mang niềm tin và sự sống truyền lại cho nhiều thế hệ tiếp theo.

Cảm nhận về tình bà cháu trong bài thơ Bếp Lửa Cảm nhận về tình bà cháu trong bài Bếp Lửa – Mẫu 1

Bằng Việt viết bài thơ “Bếp lửa” khi ông đang công tác ở nước ngoài. Hình ảnh người cháu hay cũng chính là hóa thân của nhà thơ vào nhân vật trữ tình suy tưởng về kỉ niệm xã xưa về hình ảnh bếp lửa quê hương và người bà hiền hậu, vất vả, gian lao. Tình cảm ấy được tái hiện thiết tha và cảm động làm xúc động lòng người.

Hình ảnh bếp lửa trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. Xuất phát từ nỗi nhớ ấy, tất cả những hình ảnh, ngôn từ hiện lên qua dòng hoài niệm. Trong kí ức đó, cuộc đời của bà thật nhiều “lận đận”, trải qua nhiều “nắng mưa” vất vả. Bà cần mẫn lo toan, chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm vì bát cơm, manh áo của con cháu trong gia đình, vần thơ chứa đựng bao nhiêu nghĩa nặng tình sâu. Cháu vô cùng cảm phục và biết ơn bà:

Bà đã nhóm bếp lửa trong suốt cuộc đời bà, đã trải qua nắng mưa “mấy chục năm rồi”. Bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu.

Bà không chỉ nhóm bếp lửa bằng đôi tay già nua gầy guộc, mà bằng tất cả tấm lòng đôn hậu luôn “ấp iu nồng đượm” của bà đối với cháu.

Điệp từ “nhóm” được lặp lại 4 lần, đan kết với những chi tiết rất thực và gần gũi thân quen với mỗi con người, với mọi gia đình chúng ta. Vị ngọt bùi của khoai sắn, hương vị ngọt ngào của nồi xôi gạo mới… đều do bàn tay tần tảo của bà “nhóm” lên. Bà đã nhen nhóm, nuôi dưỡng trong lòng con cháu bao “niềm yêu thương”, bao ước mơ, hoài bão và hi vọng. Tâm hồn và khát vọng tuổi thơ đã sáng bừng lên từ ngọn lửa do bà “nhóm” suốt mấy chục năm trời.

Nếu trước đây, đó là ngọn lửa hồng được nhóm lên niềm tin trong những ngày gian khổ khó khăn vì giặc giã, đói kém thì bây giờ “ngọn lửa” ấy còn “nhóm” lên trong tâm hồn tác giả bao nhiêu vẻ đẹp khác nữa. “Nhóm bếp lửa …” ấy là cái bếp có thật, ngọn lửa, ánh sáng và hơi ấm có thật. “Nhóm niềm yêu thương” có nghĩa là bà truyền cho người cháu tinh ruột thịt nồng đượm. “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” hay cũng chính là bà mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với làng xóm, quê hương. Cuối cùng, người bà kỳ diệu ấy “nhóm dậy”, khơi dậy và bồi đắp cho tác giả về tâm hồn, nhân cách sống.

Âm điệu trong đoạn thơ này dào dạt như sóng trào dâng, lan tỏa như lửa ấm. Có lẽ cảm xúc đang dâng trào, đang tỏa ấm trong trái tim nhà thơ. Mỗi câu, mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương, ơn nghĩa. Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.

Trong kí ức của đứa cháu, hình ảnh người bà phảng phất màu sắc cổ tích. Nghĩ về bếp lửa, nghĩ về bà, nhà thơ thốt lên ngợi ca. cảm xúc dồn nén bỗng ùa ra, trào lên:

“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”.

Có thể nói, câu thơ: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!” thật đặc biệt. Chỉ tám chữ mà chứa đựng bao tình cảm, cảm xúc. Hình ảnh bà và bốp lửa hiện lên thật vĩ đại “thiêng liêng” mà cũng thật bình dị, gần gũi. Dấu gạch nối ở giữa là sự “im lặng giữa các từ”, là một dấu lặng đầy nghệ thuật chứa đựng bao cảm xúc và suy nghĩ không thể diễn tả hết bằng ngôn từ, dẫu là những ngôn từ rất cô đúc của thơ ca.

Bốn câu thơ cuối tiếp tục thể hiện một cách đằm thắm tình thương nhớ, lòng kính yêu và biết ơn của đứa trẻ bé bỏng nay đã đi xa. Cuộc đời mới thật vui, thật đẹp, đã “có ngọn khói trăm tàu”, đá “cố ngọn lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”, nhưng cháu vẫn không nguôi nhớ bà, nhớ bếp lửa gia đình yêu thương. Giọng thơ trở nên thắm thiết, ngọt ngào:

Không gian và thời gian xa cách, dù cuộc đời có đổi thay, cuộc sống vật chất có đầy đủ hơn nhưng tình thương nhớ bà thiết tha mãnh liệt. Tinh cảm ấy đã trở thành thường trực trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi tu từ và dấu lặng đã khép lại bài thơ thật khéo, thật hay có sức ám ảnh day dứt trong tâm trí độc giá. Nhà thơ hỏi nhưng cũng là nhắc nhở chính mình phải luôn nhớ tới ngọn lửa quê hương, nhớ tới người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho đứa cháu phương xa.

Với những câu thơ đầy cảm xúc, Bằng Việt đã dựng lên bức chân dung người bà bình dị, thầm lặng mà ẩn chứa một trái tim đầy nhân ái, khoan dung. Các câu thơ như những luồng sáng hắt ra từ ngọn lửa ếm nóng làm thâm thìa tâm can người đọc.

Trong hành trình cuộc đời của mỗi con người, có những ngày tháng, những kỷ niệm và con người không thể nào quên. Bằng Việt đã kể cho ta kí ức đẹp về người bà mà ông yêu quý, kính trọng với giọng điệu tâm tình sâu lắng, hình ảnh thơ giàu sức liên tưởng, suy ngẫm. “Bếp lửa” chính là món quà quý giá mà Bằng Việt gửi đến cho độc giả chúng ta. Nó nhắc nhở tuổi trẻ chúng ta về tình cảm thủy chung với gia đình, quê hương, với những gì đã nhen nhóm, nuôi dưỡng tâm hồn ta trong suốt cuộc đời.

Từ những tình cảm thiết tha và cảm động của người cháu khi nghĩ về nỗi vất vả, gian lao của người bà, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.

Cảm nhận về tình bà cháu trong bài Bếp Lửa – Mẫu 2

Bài thơ Bếp Lửa là một bài thơ thuộc đề tài tình cảm gia đình của văn học Việt Nam ta thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Bài thơ đã được tác giả Bằng Việt gửi trọn vẹn tình cảm và nỗi thương nhớ sâu sắc cho người bà tần tảo, vất vả, giàu tình yêu thương của mình. Bài thơ là một bài ca về tình cảm bà cháu ấm áp và cảm động. Mở đầu bài thơ là hình ảnh về bếp lửa với những nỗi ám ảnh nguôi ngoai:

Ngọn lửa thứ nhất là ngọn lửa trong bếp lửa, còn ngọn lửa thứ hai chính là ngọn lửa của tình yêu thương mà bà dành cho cháu. Nhắc đến bếp lửa là nhắc đến bao tình yêu thương và nỗi nhớ về bà. Cuộc đời bà “biết mấy nắng mưa”, đầy nhọc nhằn và vất vả, không chỉ nuôi còn mà còn phải nuôi cháu:

Đoạn thơ chính là hiện thực khủng khiếp của nạn đói năm 1945, trong nạn đói, người cha dù đang sức trẻ nhưng cũng “khô rạc ngựa gầy” vẫn chưa có đủ ăn. Cuộc sống khó khăn đã khiến người cháu quen với sự khổ cực, “khói hun nhèm mắt cháu” và khi hồi tưởng lại những kí ức đó, người cháu cảm giác “sống mũi còn cay”. Cùng với hình ảnh bếp lửa, âm thanh của chim tu hú cũng đã gắn với người bà:

Cảm nhận của em về tình cảm bà cháu trong bài thơ bếp lửa của Bằng Việt. Đó là kỉ niệm về người bà hiền hậu, tảo tần đã nuôi dạy cháu khôn lớn và trưởng thành. Suốt tám năm ròng cháu sống bên bà, được bà chăm chút từng miếng ăn, giấc ngủ, bảo ban và dạy dỗ cháu nên người. Với biện pháp liệt kê, tác giả đã ca ngợi công lao trời biển của người bà. Trong kí ức của cháu, bà còn là một người bà giàu đức hi sinh, gánh vác và lo toan mọi việc trong gia đình.

Dù có phải một thân già chống chọi nhưng bà không một lời kêu ca, oán thán, vẫn vững lòng làm một chỗ dựa vững chắc cho các con yên tâm công tác chiến đấu. Câu thơ là tất cả tấm lòng yêu thương, sự kính trọng và lòng biết ơn vô hạn của người cháu đối với bà.

Mỗi sớm mai bà lại tần tảo nhen lên trong cháu tình yêu thương, san sẻ niềm vui và hạnh phúc với mọi người, bà chính là người vun đắp và khơi dậy những tâm tình, mơ ước tuổi nhỏ của cháu. Chính vì vậy mà có đi xa, có lửa trăm nhà và niềm vui trăm ngả, cháu vẫn vẹn nguyên nỗi nhớ bà và bếp lửa:

Với những hình ảnh chân thực và gần gũi, giàu giá trị biểu tượng, bài thơ Bếp Lửa đã thể hiện tình cảm bà cháu sâu sắc, nồng đượm, đồng thời bài thơ còn nhắc nhở cho chúng ta phải biết sống bằng tình yêu thương, trân trọng những tình cảm gia đình thiêng liêng, cao quý.

Cảm nhận về tình bà cháu trong bài Bếp Lửa – Mẫu 3

Trong số các nhà thơ Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Bằng Việt là một trong những nhà thơ hàng đầu. Khi nhắc đến Bằng Việt, người ta sẽ nhớ ngay đến bài thơ Bếp lửa. Đây là bài thơ được tác giả sáng tác về tình bà cháu trong giai đoạn kháng chiến với những yêu thương ấm áp. Ở Bếp lửa, tác giả đã thổi hồn vào thơ về một khoảng hồi ức đẹp đẽ nhất.

Đọc Bếp lửa, ta sẽ thấy đây như là nỗi lòng của người cháu dành cho bà ở những ngày tháng tuổi ấu thơ vất vả, khổ cực. Bếp lửa là hình ảnh vô cùng gần gũi với mỗi gia đình Việt Nam từ xưa đến nay, và có sức ám ảnh, lay động cả tác giả lẫn người đọc vô cùng lớn. Cũng có lẽ bởi vì bếp lửa là thứ mà khi nhìn thấy, ta sẽ nghĩ đến ngay những người bà, người mẹ và những kỷ niệm thời ấu thơ:

Tác giả sử dụng điệp từ “ một bếp lửa” như để thôi thúc bản thân luôn có một nỗi nhớ hiện hữu trong suy nghĩ. Bếp lửa cứ chờn vờn và ấp iu, như thể hiện sự gắn bó không thể tách rời với bản thân tác giả. Những ký ức về bà, về tuổi thơ cứ thế dội về mạnh mẽ, khiến cho tác giả phải cảm thán “ ôi”. Từ “ ôi” tha thiết, mang nặng ân tình, thiêng liêng quá. Có lẽ tác giả đã có những năm tháng tuổi thơ không thể nào quên bên người bà của mình, vậy nên kí ức cứ thế ùa về:

Ở khổ thơ này, tác giả cho ta thấy rõ sự nhọc nhằn, vất vả của tuổi thơ khi cậu bé bốn tuổi đã quen thuộc với mùi khói bếp. Khi đất nước rơi vào cảnh chiến tranh, khiến cho nạn đói diễn ra ở khắp nơi. Khói bếp đã hun đầy ở khóe mắt, hiện lên một tuổi thơ nhọc nhằn. Cuối câu thơ xuất hiện chữ cay như gieo vào lòng người nỗi buồn man mác. Sống mũi cay khi tuổi thơ cơ cực, bà với bố mẹ vất vả sớm hôm.

Một quãng thời gian dài đằng đẵng, ròng rã tám năm trời bà và cháu nhọc nhằn bên nhau. Hai bà cháu cùng nhau tần tảo sớm hôm, cùng nhau nhóm lửa, như để nhóm lên tình yêu thương của bà dành cho cháu. Ở đoạn thơ này, tiếng tu hú xuất hiện nhiều lần, tu hú gọi hè, gọi lúa chín, gọi cả giấc mơ của hai bà cháu về một tương lai tươi sáng hòa bình.

Khổ thơ này thật sự khiến cho người đọc cảm thấy nghẹn ngào, xúc động. Cảm xúc của tác giả kìm nén sau bao nhiêu năm giờ cũng đến lúc dâng trào. Có lẽ những năm tháng sống bên cạnh bà, tuy vất vả nhưng tràn đầy yêu thương. Tác giả thương bà vất vả, khó nhọc, tần tảo bên bếp lửa để chăm lo cho cháu. Dù trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh gian khổ, nhưng tình cảm bà cháu vẫn thật thiêng liêng. Vậy nhưng điều không thể tránh khỏi, đó là chiến tranh đã cướp đi rất nhiều thứ:

Khổ thơ này làm bật lên đức hy sinh cao cả của người phụ nữ Việt Nam. Trong khó khăn gian khổ, nhưng người mẹ, người bà vẫn luôn là chỗ dựa vững chắc và bình yên nhất cho người đi chiến đấu ở tiền tuyến. Bà yêu thương cháu, thương con, thương cho đất nước đang rơi vào cảnh lầm than.

Ngọn lửa đã được cháy lên, chứ không còn là bếp lửa nhỏ bé nữa. Cũng như tình yêu thương của người bà, lúc nào cũng nhen nhóm trong lòng với tình yêu bao la vô bờ bến. Đến khổ thơ cuối, có lẽ tác giả đã trở về thực tại, với một giọng thơ nghẹn ngào, đầy cảm xúc:

Cháu của bà giờ đây đã không còn nhỏ bé trong vòng tay của bà nữa. Cháu đã đi xa, đến những vùng đất mới với nhiều niềm vui. Vậy nhưng tình yêu cùng những kí ức tuổi thơ bên bà là điều tác giả không thể nào quên, mang theo đến suốt cuộc đời.

Có thể nói, Bếp lửa là một bài thơ vô cùng giản dị, nhẹ nhàng nhưng lại để lại trong lòng người đọc một cảm xúc chẳng thể nói nên lời. Đây là một bài thơ rất thành công về tình yêu thương giữa những người thân yêu, dù cho bao nhiêu khó khăn gian khổ cũng không có gì thay đổi.

Cảm nhận về tình bà cháu trong bài Bếp Lửa – Mẫu 4

Bằng Việt thuộc lớp nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông trong trẻo, mượt mà, tràn đầy cảm xúc, thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ. Bài thơ Bếp lửa là tác phẩm tiêu biểu phong cách thơ Bằng Việt. Qua hình ảnh bếp lửa, nhà thơ làm hiện lên kỉ niệm tuổi thơ và tình bà ấm áp, đồng thời thể hiện tình yêu thương đối với người bà hiền hậu, với quê hương, đất nước.

Bài thơ mở ra với hình ảnh bếp lửa ấm áp, từ đó gợi về những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”

Bằng cách khắc họa đậm nét hình ảnh bếp lửa và làm mở không gian xung quanh, đoạn thơ có giá trị tạo hình mạnh mẽ. Bếp lửa “chờn vờn” hiện lên trong không gian buổi sớm làng quê Bắc bộ như một đặc trưng không thể nhòa lẫn. Đó lại là một bếp lửa “ấp iu, nồng đượm” tỏa sáng và tỏa ấm tình người trong buổi sớm tinh sương. Tất cả tập trung về với hình ảnh bếp lửa hồng, dù được nhìn rất xa nhưng rất ấm.

Câu thơ còn gợi lên hình ảnh bàn tay dịu dàng, kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chăm chút, vun vén của người nhóm lửa, gợi lên những tháng ngày vất vả gian lao cùng bếp lửa ấp ” cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. “Biết mấy” là không biết bao nhiêu, không thể đong đếm được, là vô biên vô tận. Trong lòng người cháu đi xa trào dâng một cảm xúc thương yêu người bà mãnh liệt, thương người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh đìu hiu qua bao năm tháng đằng đẵng. Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Cùng với bà, với bếp lửa, người cháu đã đi qua những tháng ngày gian khổ khủng khiếp của dân tộc. Những năm tháng “đói mòn đói mỏi”, con người tưởng như cùng kiệt, cái chết hiện hình khắp mọi nơi thật đáng kinh sợ. Có lẽ, năm người cháu bốn tuổi, vẫn còn quá nhỏ để thấu hiểu hết những cam go của cuộc đời, những toan lo của người bà và cha mẹ.

Thành ngữ “Đói mòn đói mỏi” – cái đói dài làm mỏi mệt, kiệt sức, con ngựa gầy rạc của hình ảnh người bố đánh xe chắc cũng gầy khô… gợi nỗi xót xa ám ảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 trước ngày cả nước ta vùng lên giành chính quyền. Quá khứ hiện về với hình ảnh những người chết đói đầy trên đường làng.

Nhà thơ Bằng Việt với hình ảnh hết sức tiêu biểu đã gợi cho ta thấy một quá khứ tang thương đầy những thảm cảnh của dân tộc gắn liền với số phận những người dân mất nước trong đó có cả tác giả. Đọc đến câu thơ này chúng ta hoàn toàn không thấy có một vòm trời cổ tích màu hồng với những ước mơ, những hình ảnh đầy lãng mạn bay bổng của một thời ấu thơ. Tất cả chỉ còn lai những hình ảnh thương tâm, khốn khổ. Giọng thơ trĩu xuống, nao nao lòng người đọc.

Những năm tháng ấy gây một ấn tượng sâu đậm lay động tâm hồn nhà thơ. Ấn tượng nhất đối với cháu trong những năm đói khổ ấy là mùi khói bếp của bà. Mùi khói bếp cay xè mắt cháu. Cái mũi cay cay ấy hòa quyện trong kí ức vừa xa xăm vừa gần gũi tưởng như vừa mới đâu đây. Quá khứ và hiện tại đồng hiện trên những dòng thơ. Mùi khói bếp của bà có sức ám ảnh, làm lay động cả thế chất và tâm hồn cháu.

Thời gian đằng đẵng trôi đi. Cái đói, cái chết âm thầm giấu mặt. Theo năm tháng, cháu nhận được sự yêu thương, che chở, dưỡng nuôi tâm hồn từ tấm lòng của bà. Cháu sống cùng bà vất vả, khó khăn nhưng đầy tình yêu thương:

“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Mẹ cùng cha công tác bận không về,

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Tám năm ròng, bếp lửa ấy vẫn cháy không ngừng nghỉ. Từng kỉ niệm hiện lên ấm áp tình bà. Cảm xúc yêu thương hòa quyện trong không gian thời gian. Nhớ nhất là tiếng tu hú kêu khắc khoải ngày hè vừa tha thiết, thê lương vừa khơi bừng niềm tin cuộc sống. Âm thanh quen thuộc của chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, cuộn xoáy trong lòng người con xa xứ. Tu hú kêu báo hiệu mùa quả chín, báo hiệu cuộc sống sẽ tái sinh và nảy nở sau nhưng tang thương, chết chóc.

Có 11 câu thơ mà âm thanh ấy vang vọng đến 5 lần, khi thảng thốt, khắc khoải, có lúc lại mơ hồ văng vẳng từ những cánh đồng xa: tu hú kêu trên những cánh đồng xa, khi thì lại rộn về rất gần gũi, tha thiết “ tu hú sao mà tha thiết thế’. Rồi có lúc gióng giả hoài mong. Điệp ngữ và câu hỏi tu từ đã tạo nên những cung bậc khác nhau của âm thanh: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa “. Tất cả gọi lên không gian mênh mông, bao la, buồn vắng đến lạnh lùng. Trong những cung bậc khác nhau của âm thanh tiếng chim tu hú, tâm trạng của người cháu mỗi lúc một trở nên da diết, mạnh mẽ hơn.

Bên cạnh bếp lửa hồng, bên cạnh âm thanh của tiếng chim tu hú, hai bà cháu đã gắn bó chia sẻ, chắt chiu những tình cảm ấm nồng suốt 8 năm ròng. Những tháng ngày cam go ấy, bà thay cha mẹ dạy cháu làm, chăm cháu học, toan lo tất cả cho cháu. Bà là cả một thế giới che chở. Những câu chuyện cổ tích của bà kể mở ra một thế giới khác, tốt đẹp hơn, giúp cháu biết mơ ước, khát vọng và hi vọng.

Các từ ngữ như: “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” đã diễn tả mọi cách sâu sắc, thấm thía tấm lòng đôn hậu, tình yêu thương bao la, sự chăm chút của bà đối với cháu, gợi là tình bà cháu quấn quýt, đầy ắp thương yêu. Bà hiện lên ấm áp, tần tảo, chịu thương, chịu khó. Bà luôn là chỗ dựa vững chắc cho cháu, thay thế và lấp đầy tất cả (cả khát khao học hành và cả hình thành nhân cách). Bà là sự kết hợp cao quý giữa tình cha, nghĩa mẹ, ơn bà.

Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong chuyện cổ tích. Người bà không những tảo tần, lo toan mà còn biết hi sinh. Điều khiến cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua những năm tháng gian nan, đau khổ mà không hề kêu ca, phàn nàn:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Bên trong người bà già yếu và cằn cỗi còn có một ngọn lửa thiêng liêng, bất diệt, đó là ngọn lửa yêu nước. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc. Lời nói “Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” ngay trong hoàn cảnh khốc liệt nhất thật đáng khâm phục biết bao. Chính tấm lòng ấy tiếp thêm sức mạnh cho người cháu, giữ vững niềm tin yêu để vượt lên khó khăn, thử thách.

Hình ảnh người bà càng hiện lên rõ nét, cụ thể với những phẩm chất cao quý. Trong những năm tháng chiến tranh khó khăn và ác liệt ấy, cơ hàn rồi đến giặc giã, thế nhưng bà vẫn bình tĩnh, vững lòng, đinh ninh là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu: “vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh” vẫn chỉ có hai bà cháu sớm hôm và bà vẫn vững lòng trước mọi tai hoạ, mọi thử thách khốc liệt của chiến tranh, làm tròn nhiệm vụ hậu phương để người đi xa công tác được yên lòng.

Lời dặn trực tiếp của bà khi cháu viết thư cho bố không chỉ giúp ta hình dung rõ ràng giọng nói, tiếng nói, tình cảm và suy nghĩ của bà mà còn làm sáng lên phẩm chất của người mẹ Việt Nam. Ở đây hình ảnh bếp lửa ân cần, ấm cúng và nhẫn nại của bà hoàn toàn tương phản với ngọn lửa của kẻ thù đang thiếu đối sự sống. Bên cạnh ngọn lửa hung tàn của kẻ thù vẫn còn một ngọn lửa nhen lên mốt sự sống khác.

Như vậy, mạch cảm xúc xen kẽ lời kể, giọng điệu ngôn ngữ, hình ảnh thơ cứ lan toả dần, rõ dần lên giọng thơ chuyển từ trữ tình sang tự sự. Đó là giọng kể thủ thỉ, tâm tình rất nhỏ, rất nhẹ, làm cho dòng cảm xúc miên man và để lại những dấu ấn sâu đậm về kỉ niệm tuổi thơ và tình bà ấm áp. Lời bà văng vẳng bên tai, vẫn đinh ninh trong lòng cháu. Người cháu trong bài thơ tuy phải sống xa cha mẹ, tuy tuổi thơ cơ cực thiếu thốn nhưng người cháu thật hạnh phúc trong vòng tay yêu thương của bà.

Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể ở câu trên, tác giả chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà. Người cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm, thấu hiểu cuộc đời bà, về lẽ sống của bà với sự chăm sóc, lo toan, vất vả và tình yêu thương trìu mến thiết tha dành cho đứa cháu. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, kết cấu vòng tròn khép kín trong suy ngẫm miên man

Làm nên thành công làm nên thành công của đoạn tưởng về qua dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình chính là kết hợp, đan xen nhuần nhuyễn giữa các yếu tố biểu cảm, miêu tả và tự sự. Đây cũng là bút pháp quen thuộc của nhà thơ. Chính sự kết hợp nhuần nhị độc đáo đó ảnh của bà thật gần gũi, những mảng tuổi thơ lại hiện về sống động,chân thành và giản Qua đó, trong dòng hồi tưởng về quá khứ, người cháu thể hiện nhớ thương vô hạn và biết ơn bà sâu nặng…

Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về những kỉ niệm tuổi thơ và tình bà ấm áp, thiêng liêng; đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả tự sự và bình luân. Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi một kỉ niệm, cảm xúc, suy nghĩ về bà và tình bà cháu.

Cảm nhận về tình bà cháu trong bài Bếp Lửa – Mẫu 5

Nhớ về tuổi thơ của mình, nhà thơ đã nhớ đến người mẹ thân yêu với những việc làm trở lại trong mọi ngày vào sáng sớm, ban trưa và buổi tối, trong cả bốn mùa xuân – hạ – thu – đông. Đó là: đi lấy nước, đưa nôi và nhóm lửa. Nhóm lửa, đi lấy nước, đưa nôi. Bà đã làm việc ấy như nhen nhóm, gìn giữ và nâng niu những gì quý giá nhất của đời mình. Do hoàn cảnh sống, những năm tháng tuổi thơ, Bằng Việt cũng chỉ sống với bà. Trong nỗi nhớ của nhà thơ, bà bao giờ cũng hiện lên cùng bếp lửa. Bởi mỗi ngày của tuổi thơ lận đận đều bắt đầu từ ngọn lửa bà nhen. Bên bếp lửa ấy, bà đã bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học… Sự sống của cháu đã được nhen lên và giữ gìn ngọn lửa ấy. Thì ra thế, ở đất nước nào ngọn lửa cũng là cội nguồn của sự sống, bếp lửa nào cũng nhọc nhằn, tần tảo, bếp lửa nào cùng nồng đượm, ấp iu.

“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Đó là lời thốt lên từ niềm trân trọng, biết ơn, cũng là lời thốt lên khi chợt nhận ra trong một vật đơn sơ lại ẩn náu bao điều kì diệu.

“Bếp lửa” là lời tâm tình của đứa cháu hiếu thảo đang ở nơi xa gửi về người bà yêu quý ở quê nhà. Lời tâm tình được dệt bằng biết bao kỉ niệm tuổi thơ, mỗi kỉ niệm được bao bọc trong một nỗi nhớ thương vừa trào dâng vừa sâu lắng. Cả bài thơ là một dòng tâm trạng, một dòng hồi ức. Mặc dù tác giả đã có ý sắp xếp theo một trật tự thời gian, nhưng toàn bài thơ vẫn cứ là một dòng chảy xáo động. Những thương nhớ cứ xô đẩy trật tự sắp đặt, cảm xúc cứ lấy quyền dẫn dắt ý tứ. Cho nên các khổ, các đoạn thơ dài ngắn không đều. Bài thơ gồm hai giọng – giọng kể (tự sự) nắm vai trò tổ chức chung đối với toàn bài, và giọng cảm thương (trữ tình) thấm đượm vào mỗi kỉ niệm, mỗi đoạn thơ. Nhưng đọc toàn bài, thấy giọng cảm thương, nhớ nhung da diết cứ muốn trào dâng, lấn át tất cả. Mạch tự sự mờ đi, lẩn mình vào mạch cảm xúc.

Trước hết hãy nói đến mạch chuyện, mạch kể. Kể bao giờ cũng nhằm tái hiện sự việc. Các sự việc được kể tiếp nối thành chuỗi, tạo thành mạch chuyện nào đó trong bài thơ. Bằng Việt kể không nhiều, nhưng khá rành rọt. Nhớ từng thời điểm, rành rõ từng quãng thời gian, từng cảnh ngộ gia đình trong những biến động chung của đất nước: Lên bốn tuổi, tám năm ròng, Năm giặc đốt làng, Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ, rồi thì giờ thì cháu đã đi xa… Lần theo những mốc thời gian ấy, các sự kiện được kể cứ tiếp nối tạo thành một cốt truyện cho cuộc chuyện trò trong tâm tưởng với bà… Nhưng những sự việc sống trong nỗi nhớ bao giờ cũng được bao bọc bởi tâm tình. Huống chi đây lại là những sự việc thuộc về quãng đời ngọn nguồn của đời người.

Vì thế mỗi một kỉ niệm thức dậy là biết bao tâm tình sống dậy. Cứ thế theo với mạch sự việc, mạch tâm tình cũng thể hiện mà dâng trào. Thiếu một tâm tình sâu nặng, thì các sự việc thời thơ ấu gian khổ có được tái hiện kĩ đến mấy, cũng khó mà thành thơ.

Ngần ấy sự việc suốt mấy chục năm đó chỉ xoay quanh hình tượng bếp lửa của bà. Lửa là ánh sáng, lửa là hơi ấm. Bếp lửa lặng thầm nuôi dưỡng mọi gia đình, nuôi dưỡng cả sự sống này. Nép mình trong góc nhà, xó bếp, có gì mộc mạc khiêm nhường hơn bếp lửa? Nhưng có gì cao quý thiêng liêng hơn? Suốt ngày, suốt tháng, suốt năm, bếp lửa cứ lụi cụi, hi sinh, tần tảo. Cho nên, nhớ về bếp lửa là nhớ về bà. Đó chính là sự gắn bó tự nhiên kì lạ giữa hai hình ảnh thân thương. Bài thơ mở đầu bằng một khổ thơ ba câu.

Ngọn lửa “chờn vờn sương sớm” là ngọn lửa thực trong lòng bếp bập bùng nhen lên mỗi sớm mai. Nhưng ngọn lửa “ấp iu nồng đượm” đã là ngọn lửa của tình bà chăm sóc cưu mang. Theo trình tự thơ, ngọn lửa cứ chập chờn, bập bùng, hình tượng thơ cứ tỏ dần, tỏ dần. Bên bếp lửa là dáng hình bà qua nắng mưa, năm tháng.

Kể từ đó, hình ảnh bếp lửa cứ cháy trong kỉ niệm của tình bà cháu. Qua những năm tháng đói khổ. Qua những năm tháng chiến tranh. Cháu bắt đầu nhớ mùi khói từ khi lên bốn. Thì cũng là năm “đói kém” (1945). “Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” bố bươn trải đưa gia đình qua khỏi thì đói kém mà cứ chìm đi trong kí ức. Trong kí ức chỉ còn lưu lại những gì khốn khổ thương tâm: “đói mòn, đói mỏi, khô rạc ngựa gầy, khói hun nhèm mắt cháu”… Bởi thế mùi khói từ những năm đầu đời qua mấy chục năm ròng, vẫn cứ nguyên trong kí ức, chẳng thể tiêu tan:

“Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Mùi khói của quá khứ làm cay sống mũi hiện tại? Hay là nhớ thương từ hiện tại đã làm sống dậy ngọn khói từng hun nhèm mắt cháu mấy chục năm xưa? Trong khoảnh khắc ấy của hồi ức, hoài niệm đã xóa đi cái khoảng cách mấy chục năm trời.

Trong những năm tháng ấy, bên cạnh bà cháu, bên cạnh bếp lửa còn có một nhân vật nữa, giờ đây nhớ lại cháu cũng chẳng bao giờ quên: ấy là chim tu hú – “Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”. Tiếng chim gợi lên cái không gian mênh mông buồn vắng. Tiếng tu hú nhắc cảnh mùa màng sao trớ trêu trong những ngày đói kém. Tiếng chim tu hú lạc lõng chơ vơ côi út như khát khao được che chở, ấp iu. Đứa cháu được sống trong sự chăm sóc ấm áp của tình bà đã chạnh lòng thương con tu hú bé bỏng, thiệt thòi

Thương con chim tu hú bất hạnh bao nhiêu là biết ơn những ngày hạnh phúc được bà đùm bọc, chi chút bấy nhiêu.

Nếu chim tu hú đáng thương là cảnh ngộ tương phản với đứa cháu được yêu thương, thì bếp lửa ân cần, ấm cúng, nhẫn nại của bà tương phản với ngọn lửa thiêu hủy dã man của bọn giặc. Một ngọn lửa thù địch với sự sống: “Năm giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi”, một ngọn lửa nhen lên sự sống:

Bà đã chịu đựng tất cả nhọc nhằn, khốn khổ, mất mát, hi sinh. Bà đã góp gom, ấp ủ, chắt chiu, nhen nhóm. Những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa dã man, kì lạ thay, lại được hồi sinh trong ngọn lửa của bà! Cứ thế cuộc đời bà cháu được chở che, duy trì qua bao năm tháng. Cứ thế sự sống muôn đời được giữ gìn nuôi dưỡng, trường tồn. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen lên ngọn lửa bền bỉ trong bếp lửa kia! Vừa kể lại, vừa tỏ lòng thương nhớ, biết ơn, vừa suy tư. Đến đây nhà thơ mới đúc kết về sự kì lạ và linh thiêng bếp lửa của bà:

Và đứa cháu hiếu thảo ấy giờ đây đã lớn, đã đi rất xa nơi bếp lửa của bà, đã biết đến khói trăm miền, đã vui với ngọn lửa trăm nhà. Cháu đã đi ra với đất rộng trời cao, đến với những chân trời hạnh phúc. Nhưng trong lòng cháu vẫn chỉ nhớ về ngọn khói đã làm nhèm mắt cháu thuở lên bốn, chỉ nhớ về ngọn lửa tảo tần nắng mưa nơi góc bếp của bà. Cháu chẳng bao giờ quên bếp lửa bởi đó là cội nguồn, bởi cuộc đời cháu đã được nhen lên từ trong ngọn lửa ấy:

Lời nhắc ấy là lời nhắc của ngọn lửa mà cháu đã mang theo từ bếp lửa của bà? Thế là ngọn lửa của bà giờ đây đã cháy trong lòng cháu! Một bếp lửa của cuộc đời mới được nhen lên! Cứ thế, ngọn lửa của sự sống truyền đời bất diệt!

“Bếp lửa” là bài thơ cảm động! Tình cảm dạt dào trong lòng đã tìm đến một giọng điệu, một nhịp điệu thật phù hợp, ấy là nhịp bập bùng của lửa! Giọng kể lể và bộc bạch cứ tràn ra, cứ dâng lên, mỗi ngày một nồng nàn, ấm nóng. Đâu phải ngẫu nhiên bài thơ bắt đầu bằng một đoạn ba câu, rồi càng những đoạn sau, số câu trong từng đoạn nhiều mãi. Khi số lượng không nhiều, thì giọng thơ lại cuộn lên. Lối trùng điệp được sử dụng hết sức biến hóa. Những kiểu câu lặp lại, những vế câu láy lại, những lời nhấn nhá thật nhiều. Tất cả phối hợp với nhau góp phần tạo nên sự dạt dào xáo động của tâm tình, tất cả góp phần tạo nên cái nhịp chờn vờn, bập bùng, dai dẳng của ngọn lửa. Vì lối viết như vậy mà người đọc bị cuốn vào âm điệu thật đặc biệt. Đọc “Bếp lửa” chẳng những thấy được một dòng tâm tư sâu nặng dạt dào của một đứa cháu nghĩa tình hiếu thảo, mà còn như thấy rõ ngọn lửa cứ chờn vờn, bập bùng suốt cả âm điệu nồng hậu của bài thơ.

Đọc bài thơ này, nhìn lại bếp lửa thân quen trong góc bếp nhà mình, hẳn cái nhìn của chúng ta chẳng thể còn như trước.

Cảm nhận về tình bà cháu trong bài Bếp Lửa – Mẫu 6

Chủ đề quê hương, gia đình làng xóm là những kỉ niệm đẹp đẽ về tuổi thơ thân thuộc đối với những ai xa quê. Như Tê Hanh quê hương là “làng chài ven biển/nước bao vây cách biển nửa ngày sông”, hay Nguyễn Trung Quân “quê hương là chùm khế ngọt/cho con trèo hái mỗi ngày”. Nhưng với Bằng Việt quê hương của ông lại là hình ảnh bếp lửa mộc mạc, giản dị. Nghĩ về bếp lửa là nghĩ về bà, nghĩ về quá khứ tuổi thơ đầy khó nhọc, vất vả.

Bài thơ bếp lửa mở đầu gợi lên hình ảnh về những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc và hồi tưởng về bà:

Dòng hồi tưởng bắt nguồn từ hình ảnh thân quen, ấm áp về bếp lửa, hai câu thơ song hành đã làm hiện lên hình ảnh bếp lửa của bà:”Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”.

Còn hình ảnh “bếp lửa chờn vờn” là hình ảnh tả thực, được cảm nhận bằng thị giác. Từ láy “chờn vờn” gợi hình ảnh làn sương lan tỏa, gợi sự bập bùng của ngọn lửa, còn bếp lửa “ấp iu” gợi lên hình ảnh ngọn lửa bùng cháy từ sự chi chút, nâng niu, kiên nhẫn của bà, gợi lên bàn tay khéo léo và tấm lòng của người nhóm lửa. Điệp từ “một bếp lửa” gây ấn tượng về hình ảnh bếp lửa gần gũi, thân thuộc với mỗi gia đình người Việt.

Nhớ về hình ảnh bếp lửa là nhớ về bà “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!” câu thơ diễn tả trực tiếp tình cảm thành lời của tác giả đối với bà. Cụm từ “biết mấy” kết hợp với kết hợp với hình ảnh “nắng mưa” cho thấy được sự vất vả của cuộc đời bà, tình thương bền bỉ của bà cháu theo năm tháng không phải mờ, luôn thường trực trong cháu. Chữ “thương” đi với “bà” là hai thanh bằng đi liền nhau tạo nên sự ngân dài xao xuyến, nỗi nhớ trải dài của cháu đối với bà.

Khổ thơ thứ hai nói về những kỉ niệm khi lên bốn của cháu. Đó là những kỉ niệm tuổi thơ gắn liền với những năm tháng gian khổ, vất vả. đó là những cái đói dài, mệt mỏi, kiệt sức cộng với hình ảnh con ngựa gầy khô rạc, đây là hình ảnh nói về nạn đói của đất nước năm 1945. Với hình ảnh hết sức tiêu biểu nhà thơ đã gợi lên một khung cảnh vô cùng đau thương của người dân mất nước.

Ấn tượng sâu đậm trong lòng cháu đó là khói bếp “Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu /Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!” câu thơ vừa tả thực cuộc sống gian khổ, thiếu thốn vừa diễn tả cảm xúc mãnh liệt của tác giả đối với bà về những năm tháng đó nhưng cháu cảm thấy hạnh phúc khi có bà và bếp lửa.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Bố đi công tác xa, cháu ở nhà với bà, đó là hoàn cảnh chung của nhiều gia đình Việt lúc bấy giờ. Tuổi thơ của cháu luôn gắn liền với sự đùm bọc, cưu mang của bà. Bên bếp lửa, bà “hãy kể những câu chuyện ở Huế”, chuyện đời thường hàng ngày, chuyện cổ tích đời xưa. Đó là những câu chuyện xưa và nay. Bà bảo ban, dạy cháu học, dạy cháu làm, bà là người cha người mẹ cũng là người thầy, dồn cho cháu hết tình yêu thương, bà là chỗ dựa vững chắc cho cháu. Chỉ có mỗi hai bà cháu chống lại sự khốc liệt của chiến tranh, làm hậu phương vững chắc để người phương xa yên lòng chiến đấu.

Hình ảnh bếp lửa được thay thế bằng hình ảnh “ngọn lửa” là hình ảnh tượng trưng cho tình yêu, niềm tin, hy vọng và nghị lực mà bà gieo vào cháu, chính ngọn lửa của bà đã nhen nhóm trong cháu nghị lực và ý chí, thắp sáng niềm tin vào cuộc sống, mà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà bà còn là người giữ lửa. Cả đời bà tần tảo, hy sinh, tháng ngày của bà là những ngày gian truân, vất vả.

Hình ảnh bếp lửa vừa kì lạ vừa thiêng liêng: “ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa”, đảo ngữ kết hợp hình thức cảm thán, thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên khi khám phá ra những điều kỳ diệu giữa cuộc sống bì dị. bếp lửa bà nhóm không chỉ bằng nhiên liệu bên ngoài mà bằng chính cả ngọn lửa bên trong của bà, ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương và niềm tin.

Từ hình ảnh bếp lửa của bà, ngọn lửa của bà cháu hiểu được tình cảm thiêng liêng và cao đẹp mà bà dành cho cháu, cho quê hương. Bếp lửa trở thành một biểu tượng cho tình yêu thương của bà, gần gũi, kì lạ và thiêng liêng, là hình ảnh của quê hương, đất nước. Từ đó hướng con người về với cội nguồn, nơi mà cháu được bà nuôi dưỡng từ ngày ấu thơ.

Khổ cuối chính là lời bộc bạch của người cháu nơi phương xa luôn một lòng nhớ tới bà. Cuộc sống vật chất và tinh thần có đầy đủ thì đối với cháu ở bên bà cháu mới thấy hạnh phúc. Dù cháu có đi đâu cũng không bao giờ quên được tấm lòng và sự hy sinh của bà. Nỗi nhớ về bà cũng là nỗi nhớ về quê hương, về cội nguồn, là đạo lý thủy chung của con người Việt Nam.

Bài thơ là lời tâm sự bộc bạch của một người cháu nơi phương xa nhớ tới bà, tới mùi bếp lửa thơm rơm, nhưng đó cũng chính là nỗi nhớ về quê hương, về cội nguồn của một con người, dù đi đâu về đâu thì quê hương cũng là bến đậu cho mỗi chúng ta khi trở về.

Cảm nhận về tình bà cháu trong bài Bếp Lửa – Mẫu 7

Bài thơ ra đời năm 1963, khi ấy nhà thơ đang học tập và sinh sống ở nước bạn Liên Xô. Trong nước, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc đang dần đến hồi cam go. Nhớ về Tổ quốc trong những ngày tháng ấy, Bằng Việt gửi trọn niềm thương nỗi nhớ cho người bà tần tảo, vất vả mà giàu tình yêu thương của mình.

Bài thơ có tên là “Bếp lửa” nhưng một điều dễ nhận thấy là hình ảnh đầy sức gợi ấy được gợi cảm hứng từ người bà. Hay nói cách khác, bếp lửa trong kí ức nhà thơ được nhóm lên từ đôi tay của bà: sáng sáng chiều chiều bà nhen bếp lửa thổi gạo, nấu cơm một tay tảo tần nuôi cháu, Bởi thế, hình ảnh bếp lửa bập bùng trong bài thơ để hình ảnh thiêng liêng ấy gắn bó mật thiết với hình ảnh của bà. Nhắc về bà là nhớ về bếp lửa và nhớ về bếp lửa là nhớ về bà. “Bếp lửa” là bài ca về tình bà cháu ấm áp, cảm động.

Bài thơ mở đầu bằng những hình ảnh thơ đầy ám ảnh:

Ngọn lửa “chờn vờn sương sớm” là ngọn lửa thực trong lòng bếp lửa được nhen lên trong mỗi sớm mai. Còn ngọn lửa “ấp iu nồng đượm” là ngọn lửa của yêu thương mà bà dành cho cháu. Bởi vậy nên nhắc đến bếp lửa là nhắc đến bà với bao tình thương và nỗi nhớ: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Những nắng mưa ấy là gì?

Là cuộc đời đầy vất vả nhọc nhằn không chỉ nuôi con mà còn thay con nuôi cháu:

Nhà thơ nhắc lại những năm tháng khủng khiếp của nạn đói 1945. Ngày tháng ấy đến người cha đương sức trẻ phải “khô rạc ngựa gầy” mà không đủ ăn. Vậy mà bà đã già cả, ốm yếu lại một tay nuôi dạy cháu. Cái đói, cái chết rình mò nhưng bà vẫn dành tất cả yêu thương mang đến cho cháu những bữa ăn nhọc nhằn:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói”

Cùng với hình ảnh bếp lửa, còn có một âm thanh tha thiết gắn với người bà: tiếng tu hú:

“Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”

Tiếng tu hú thường gợi đến cảnh đồng vàng đầy lúa chín. Nhưng trong những năm tháng ấy, tiếng tu hú tha thiết thê lương là tiếng khóc, tiếng than cho những mất mát, nghèo đói. Được bà yêu thương, che chở, người cháu chạnh lòng mà mời gọi tiếng chim “đến ở cùng bà”. Vậy là đối với cháu, bà đã trở thành biểu tượng của sự đùm bọc, chở che đầy cao cả.

Cơ cực lên đến tận cùng khi:

Nhưng ngay cả khi ấy, khi mà mọi vật đã trở thành phế tích, hoang tàn, sự sống đã bị triệt tiêu thì ở bà vẫn ánh lên những tia lửa của tình yêu:

Thời thế có thăng trầm biến chuyển thì lòng bà vẫn như ngọn lửa, trước sau vẫn bùng lên trong bếp nhỏ “chứa niềm tin dai dẳng” vào cuộc đời. Nuôi cháu ăn, bà còn “dạy cháu làm, chăm cháu học” không muôn để cái đói, cái nghèo vùi dập đời sống văn hóa, tinh thần của cháu. Đó là tư tưởng vô cùng tiến bộ hiếm thấy ở những người mà tuổi tác đã như bà. Điều đặc biệt là bà đã âm thầm đón nhận gian khó và lại một mình chịu đựng những nhọc nhằn, không muốn những cực nhọc của bản thân làm con cái lo lắng:

Hình ảnh bà hiện lên chẳng những ấm áp yêu thương mà còn đầy cao cả, vị tha và giàu đức hi sinh. Đó phải chăng là tấm lòng muôn thuở của những người bà, người mẹ trên mảnh đất Việt Nam này?

Suốt những phần đầu của bài thơ, nhà thơ vừa kể, vừa tỏ lòng thương nhớ, ngợi ca, biết ơn công lao của bà. Và đến đây, ông đúc kết lại về sự kì lạ và linh thiêng của hình ảnh bếp lửa và cũng là của bà:

Mấy chục năm đã trôi qua, “niềm tin dai dẳng” trong bà chưa bao giờ lụi tắt, để đến tận bây giờ “bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”. Bà vẫn tiếp tục nhóm lên ngọn lửa của yêu thương, của sẻ chia ấm áp, của bầu trời tuổi thơ đẹp đẽ trong cháu,… Bếp lửa nhóm lên hay tay bà gây dựng? Tất cả đều là những niềm kì lạ và thiêng liêng không ai gọi tên được bao giờ. Nhà thơ chỉ có thể thốt lên một tiếng “Ôi!” đầy cảm động.

Những ân tình của bà theo cháu suốt cả cuộc đời. Để giờ đây:

Lời nhắc ấy là lời nhắc cháu đã mang theo từ bếp lửa của bà. Ngọn lửa ấy luôn cháy trong lòng cháu. “Chờn vờn”, “ấp iu” nhưng dai dẳng và bền bỉ dù là “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” vẫn không thể nào khiến nó bị lụi tàn hay che khuất.

Tình bà cháu trong “Bếp lửa” của Bằng Việt là tình cảm thiêng liêng cảm động. Bà dành cho cháu những hi sinh thầm lặng của phần đời mong manh còn lại. Bà là mái ấm chở che, bao bọc tuổi thơ dại khờ, yếu đuối của cháu trước những mất mát, đau thương của cuộc sống. Và người cháu, những năm tháng cháu đi trong đời là những năm tháng cháu nhớ đến bà với lòng tin yêu và biết ơn sâu sắc. Ngọn lửa bà trao cho cháu đứa cháu giữ vẹn nguyên để trở thành ngọn lửa trường tồn, bất diệt.

Nội dung tư tưởng của “Bếp lửa” được thể hiện sâu sắc hơn nhờ những hình ảnh thơ sinh động, giàu sức liên tưởng: “bếp lửa chờn vờn sương sớm”, “bếp lửa ấp iu nồng đượm”,…cùng với đó là điệp từ “nhóm” đặc biệt được sử dụng ở cuối bài thơ. Song quan trọng hơn tất thảy là cảm xúc trân thành và lòng yêu mến vô bờ của nhà thơ đối với người bà kính yêu của mình.

Đọc và cảm nhận tình yêu thương chan chứa trong bài thơ “Bếp lửa”, người đọc thấy yêu hơn, trân trọng hơn những ngọn lửa tỏa trong căn nhà mình cùng những người thân yêu ta có được trên đời.

Cập nhật thông tin chi tiết về Bài Văn Mẫu Lớp 9: Bài Viết Số 6 (Đề 1 Đến Đề 2) Tuyển Tập 18 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất trên website Pwqy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!