Xu Hướng 12/2023 # Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Phong Cách Triết Luận Trữ Tình Của Nguyễn Khoa Điềm Trong Đất Nước Dàn Ý Và 3 Bài Văn Mẫu Lớp 12 Hay Nhất # Top 15 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Phong Cách Triết Luận Trữ Tình Của Nguyễn Khoa Điềm Trong Đất Nước Dàn Ý Và 3 Bài Văn Mẫu Lớp 12 Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Pwqy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

I. Mở bài:

– Tổng quan về đề tài đất nước trong thi ca.

– Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ mang đậm phong cách triết luận trữ tình mà ở đó người ta thấy yếu tố trữ tình và triết luận hòa hợp với nhau một cách chặt chẽ và xuyên suốt, xuất phát từ vốn kiến thức sâu rộng của nhà thơ về bề dày văn hóa và lịch sử của dân tộc.

II. Thân bài:

* Phong cách triết luận trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm:

– Phong cách viết thơ triết luận đậm đà, ông luôn có một mối liên hệ chặt chẽ giữa tư tưởng triết lý sắc sảo cùng với những giá trị truyền thống văn hóa cổ xưa của dân tộc Việt Nam ta.

– Có sức liên tưởng mạnh mẽ, dùng chính cái chất trữ tình để thể hiện tính triết luận sâu sắc với chất liệu văn hóa dân gian.

* Tư tưởng triết luận Đất Nước trong phạm trù văn hóa truyền thống.

– Lòng tự hào về cội nguồn dân tộc:

– Dùng truyền thuyết Lạc Long Quân- u Cơ, kết hợp với hình tượng Chim đại diện cho phương Nam, Rồng đại diện cho phương Đông tạo thành khối lý luận sự tương ứng giữa hai chính thể Nước – Chim và Đất – Rồng cùng với sự tích Lạc Long Quân – u Cơ giải thích về dòng giống Tiên, Rồng của người Việt.

– Suy luận về cơ sở Đất Nước dựa vào chính nền nông nghiệp lúa nước đã có từ lâu đời ở nước ta.

– Chính nền văn hóa lúa nước đã dựng xây và hình thành nên Đất Nước, chi phối và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sinh hoạt của người Việt Nam.

– Từ nền văn hóa lúa nước, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục dẫn dắt người đọc đến với văn hóa làng, xã truyền thống rất đặc trưng của dân tộc Việt Nam, mà theo phong cách triết luận của ông thì chính những con người dung dị, tầm thường, không ai nhớ mặt đặt tên ấy đã làm nên Đất Nước.

– Phong cách triết luận nằm ở cái cách thi nhân đưa các chất liệu văn học dân gian vào thơ của mình.

– Trong ca dao “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” để gợi nhắc về những nét tính cách thủy chung, son sắt của người Việt

– Đất Nước cũng bước ra từ những câu chuyện cổ tích từ những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”.

– Đất Nước hình thành từ những phong tục tập quán lâu đời của người Việt: Là một thành tố quan trọng để hình thành nên một quốc gia, là nét đặc trưng để phân biệt với các dân tộc khác, là lòng tự tôn của dân tộc.

– Từ miếng trầu trong “Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu mà ăn”, liên tưởng đến tục ăn trầu nhuộm răng có từ thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước

– Rồi từ tục ăn trầu nhuộm răng với quan niệm “Cái răng cái tóc là góc con người” Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục mở rộng suy tưởng của mình sang đến tục búi tóc thấp của đàn bà, con gái Việt trong “Tóc mẹ thì thì búi sau đầu”.

– Cách đặt tên cho đứa con trong câu “Cái kèo, cái cột thành tên”, trong ý thức tâm linh của người Việt xưa.

* Tư tưởng triết luận Đất Nước trong phạm trù lịch sử dân tộc:

– Đất Nước của một dân tộc có truyền thống đánh giặc giữ nước, truyền thống nổi bật và kiêu hùng làm nên phẩm giá quý báu của cả một dân tộc “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc”.

– Đất Nước của những con người với phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ, chiến đấu không ngừng nghỉ, căm ghét giặc cỏ, thói mọi vô cùng, quyết tâm đánh đuổi đến cùng:

* Tư tưởng triết luận Đất Nước của nhân dân:

– Chính nhân dân đã làm nên Đất Nước, gây dựng đất nước bằng những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, bằng những chất liệu văn học dân gian, bằng phong tục tập quán lâu đời

– Từ hình tượng Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm làm nổi bật hình tượng nhân dân một cách vừa cụ thể vừa khái quát hóa, đặt nhân dân vào trung tâm của Đất Nước.

* Yếu tố trữ tình:

– Thể hiện trong giọng điệu thơ tha thiết, thấm đẫm phong vị của nền văn hóa truyền thống dân tộc.

– Lòng yêu nước sâu sắc, nồng nàn đã trở thành cảm hứng chính chi phối toàn bộ nhịp thơ, là cơ sở để Nguyễn Khoa Điềm tìm về tận cội nguồn, dốc hết sức liên tưởng, triết luận để phác họa ra một Đất Nước hòa chỉnh từ văn hóa đến lịch sử và cả nhân dân.

– Tấm lòng biết ơn sâu sắc, luôn hướng về cội nguồn dân tộc, trân trọng và gìn giữ của Nguyễn Khoa Điềm trong từng câu thơ.

III. Kết bài:

– Tổng kết và cảm nhận về phong cách trữ tình triết luận của Nguyễn Khoa Điềm trong Đất Nước.

Nhắc đến Nguyễn Khoa Điềm tức là nhắc đến một nhà thơ có phong cách viết thơ triết luận đậm đà, ông luôn có một mối liên hệ chặt chẽ giữa tư tưởng triết lý sắc sảo cùng với những giá trị truyền thống văn hóa cổ xưa của dân tộc Việt Nam ta. Đọc thơ ông ta phát hiện ra rằng, Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ có sức liên tưởng mạnh mẽ, ông hết đưa người đọc đi từ quá khứ đến hiện tại, rồi lại dẫn từ những đau thương vất vả đến hạnh phúc, vui vầy, đưa nhận thức của con người từ sách vở khô khan bước ra đến với thực tiễn, lái từ tình cảm gần gũi, thân thuộc sang đến cảm xúc hào hùng, bi tráng. Đặc biệt trong Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng chính cái chất trữ tình để thể hiện tính triết luận sâu sắc với chất liệu văn hóa dân gian mà có người đã nhận xét rất đúng rằng “Thơ ca Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hoá dân gian. Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống hay thơ tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ. Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ”.

Trước hết tính triết luận trữ tình trong Đất Nước thể hiện ở lòng tự hào về cội nguồn dân tộc.

Xuất phát từ tư tưởng triết lý hài hòa âm, dương, vạn vật đều có đôi có cặp của người Việt, Nguyễn Khoa Điềm đã dẫn ta về với truyền thuyết Lạc Long Quân và u Cơ, với chiếc bọc trăm trứng nở ra trăm người con. Tuy nhiên nhà thơ sẽ không chỉ đơn giản dừng lại ở việc gợi nhắc lại truyền thuyết mà ở đoạn thơ trên còn có một sự liên tưởng sâu xa. Trong văn hóa cổ xưa hình ảnh Chim vẫn luôn tượng trưng cho bầu trời phương Nam, điều này xuất phát từ những truyền thuyết về việc chim Lạc bay về phương Nam mở đất, thêm vào đó hình tượng Rồng lại là thần thú của đại diện cho các quốc gia phương Đông. Như vậy sự tương ứng giữa hai chính thể Nước – Chim và Đất – Rồng cùng với sự tích Lạc Long Quân – u Cơ giải thích về dòng giống Tiên, Rồng của người Việt đã trở thành một sự suy luận hợp lý làm tiền đề khơi mào cho khái niệm hoàn chỉnh của về Đất Nước, một nước Nam ở phương Đông. Quả thật là một tư tưởng triết luận sâu sắc.

Nguyễn Khoa Điềm cũng suy luận về cơ sở Đất Nước dựa vào chính nền nông nghiệp lúa nước đã có từ lâu đời ở nước ta trong câu thơ “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng/ Đất nước có từ ngày đó”. Chính nền văn hóa lúa nước đã dựng xây và hình thành nên Đất Nước, chi phối và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sinh hoạt của người Việt Nam. Từ chính những hạt thóc, hạt lúa nhỏ bé ấy đã làm nên Đất Nước, đã dựng xây nên một quốc gia có nền nông nghiệp phát triển, và ngày hôm nay nó đã mạnh mẽ trở thành nước xuất khẩu lúa gạo đứng đầu thế giới.

Không chỉ thế từ nền văn hóa lúa nước, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục dẫn dắt người đọc đến với văn hóa làng, xã truyền thống rất đặc trưng của dân tộc Việt Nam.

Mà theo như Nguyễn Khoa Điềm, theo phong cách triết luận của ông thì chính những con người dung dị, tầm thường, không ai nhớ mặt đặt tên ấy đã làm nên Đất Nước, chính họ đã sống bình tâm, an lành, miệt mài lao động, xây xóm, dựng làng trên khắp mọi miền đất nước và rất nhiều xóm làng với những sinh hoạt đậm nét truyền thống như vậy đã làm nên một Việt Nam thuần nông chất phác.

Một lần nữa ta tách biệt Đất Nước thành hai yếu tố Đất và Nước, hai yếu tố tối cần trong nông nghiệp và trở nên rất gần gũi quen thuộc đối với mỗi người dân Việt, từ đó khái niệm Đất Nước trong tâm tưởng của mỗi người nông dân đã không còn trở nên quá xa lạ mà đã được Nguyễn Khoa Điềm lý giải một cách tinh tế, sâu sắc. Cuộc sống của người trồng lúa đã gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước, và sinh sống dựa vào môi trường sông nước, nên đôi khi trong tiềm thức Tổ quốc hay quốc gia cũng chỉ gọi ngắn gọn bằng một chữ Nước mà vẫn đầy đủ ý nghĩa.

Phong cách triết luận của Nguyễn Khoa Điềm còn nằm ở cái cách ông đưa các chất liệu văn học dân gian vào thơ của mình, mà ở đó Đất Nước được phô bày với tất cả những vẻ đẹp vừa đậm đà bản sắc vừa có chất lung linh huyền ảo từ những câu chuyện xa xưa vận vào. Đó là một Đất Nước bước ra từ màn sương khói xa xăm của truyền thuyết, thần thoại và ca dao cổ.

Và cả trong “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” để gợi nhắc về những nét tính cách thủy chung, son sắt của người Việt, một chất liệu đã từng nằm trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, nét tính cách đẹp ấy góp vào truyền thống của dân tộc để dựng xây nên Đất Nước. Và rồi Đất Nước cũng bước ra từ những câu chuyện cổ tích từ những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể” rất thân thương và gần gũi với mỗi con người ngay từ thuở còn nằm ngửa trong nôi, nghe mẹ ru hời.

Đất Nước cũng hình thành từ những phong tục tập quán lâu đời của người Việt, đó là một thành tố quan trọng để hình thành nên một quốc gia, là nét đặc trưng để phân biệt với các dân tộc khác, là lòng tự tôn của dân tộc. Mà trong Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm đã đề cập đến bằng những câu thơ rất hay có sự liên kết, gắn bó với nhau thành một chỉnh thể về phong tục tập quán của dân ta. Từ miếng trầu trong “Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu mà ăn”, khiến người ta liên tưởng đến tục ăn trầu nhuộm răng có từ thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước, đồng thời cũng hướng về một câu chuyện cổ tích nổi tiếng Tấm Cám, như vậy chính ra Đất Nước gắn với miếng trầu vừa đủ cả hai yếu tố cổ tích và yếu tố hiện thực trong phong tục tập quán của dân tộc. Rồi từ tục ăn trầu nhuộm răng với quan niệm “Cái răng cái tóc là góc con người” Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục mở rộng suy tưởng của mình sang đến tục búi tóc thấp của đàn bà, con gái Việt trong “Tóc mẹ thì thì búi sau đầu”. Không chỉ dừng lại ở đó, từ mái tóc của người mẹ nhà thơ tiếp tục liên kết đến cách đặt tên cho đứa con trong câu “Cái kèo, cái cột thành tên”, trong ý thức tâm linh của người Việt xưa việc đặt tên con càng xấu thì đứa trẻ càng không thu hút sự chú ý của quỷ thần, ma mãnh để mà bình yên lớn lên, tình cảm yêu thương gắn bó trong gia đình cũng được hiện lên một cách nổi bật như vậy. Có thể nói rằng những nét phong tục tập quán độc đáo mà Nguyễn Khoa Điềm đưa vào triết luận thơ đã làm cho chỉnh thể Đất Nước càng thêm vững chắc, sâu đậm, thêm linh thiêng, xứng danh một đất nước hơn 4000 năm văn hiến với những vẻ đẹp căng tràn chất hiện thực lẫn chất huyền thoại.

Bên cạnh tư tưởng triết luận Đất Nước được hình thành và tạo dựng trong các phạm trù văn hóa truyền thống, thì Nguyễn Khoa Điềm còn mở ra một hình tượng Đất Nước được gây dựng từ những truyền thống lịch sử xuyên suốt từ thuở dựng nước cho đến tận ngày hôm nay và nó được thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau trong Đất Nước. Thứ nhất Đất Nước của một dân tộc có truyền thống đánh giặc giữ nước, truyền thống nổi bật và kiêu hùng làm nên phẩm giá quý báu của cả một dân tộc “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc”.

Và phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ, chiến đấu không ngừng nghỉ, căm ghét giặc cỏ, thói mọi vô cùng, quyết tâm đánh đuổi đến cùng:

Không kể là đàn bà hay đàn ông, họ đều sẵn sàng chiến đấu sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Đất Nước mà không nao núng. Truyền thống ấy đã có từ thời Phù Đổng Thiên Vương thuở vua Hùng thứ 6 chiến thắng giặc n xâm lược, rồi cưỡi ngựa sắt trở về trời để lại những dấu tích huy hoàng, oanh liệt.

Và cuối cùng tổng kết lại, tất cả những quan điểm triết luận của Nguyễn Khoa Điềm đều hướng về một quan niệm dân chủ truyền thống: Đất nước của nhân dân, do nhân dân gây dựng mà có. Chính bản thân ông khi nói về Trường ca Mặt đường khát vọng ông cũng thể hiện rất rõ ràng tư tưởng triết luận, chính luận xuyên suốt được ông dùng phong thái trữ tình diễn đạt, rằng: “Ý tưởng xuyên suốt của tôi trong chương này là thể hiện một Đất nước của nhân dân, do đó, từ ngữ, hình ảnh, chất liệu thơ được sử dụng đều nhằm làm rõ ý tưởng này”. Ở đó hình ảnh nhân dân đã hiện lên thật mạnh mẽ, kiêu hùng và thẳng thắn, chân thật “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ Có nội thù thì vùng lên đánh bại/Để Đất Nước này là Đất nước của Nhân dân”. Chính nhân dân đã làm nên Đất Nước, gây dựng đất nước bằng những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, bằng những chất liệu văn học dân gian, bằng phong tục tập quán lâu đời. Từ hình tượng Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm làm nổi bật hình tượng nhân dân một cách vừa cụ thể vừa khái quát hóa, đặt nhân dân vào trung tâm của Đất Nước, điều ấy thể hiện trong một đoạn thơ khá dài:

Về yếu tố trữ tình, chủ yếu thể hiện trong giọng điệu thơ tha thiết, thấm đẫm phong vị của nền văn hóa truyền thống dân tộc. Lòng yêu nước sâu sắc, nồng nàn đã trở thành cảm hứng chính chi phối toàn bộ nhịp thơ, là cơ sở để Nguyễn Khoa Điềm tìm về tận cội nguồn, dốc hết sức liên tưởng, triết luận để phác họa ra một Đất Nước hòa chỉnh từ văn hóa đến lịch sử và cả nhân dân. Từ lòng yêu nước thiết tha nồng đượm ấy đã mở ra những tình cảm khác ấy là lòng yêu và trân trọng những giá trị văn hóa có bề dày lịch sử, tấm lòng tự hào trước những phẩm chất tốt đẹp của người Việt, trước thiên nhiên, trước những thành tựu do nhân dân gây dựng nên từ hạt gạo nhỏ bé cho đến Đất Nước lớn lao. Cuối cùng chính là tấm lòng biết ơn sâu sắc, luôn hướng về cội nguồn dân tộc, trân trọng và gìn giữ của Nguyễn Khoa Điềm trong từng câu thơ.

Bằng phong cách triết luận, trữ tình sâu sắc Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến một Đất Nước với dáng hình mới mẻ, khác hẳn so với các nhà thơ cùng thời, một Đất Nước nồng đượm phong vị của chất liệu văn hóa dân tộc, của hơi thở lịch sử kiêu hùng. Một Đất Nước gần gũi và chân thực, các yếu tố cấu thành có sự liên kết chặt chẽ, văn hóa và lịch sử vừa tách rời vừa thống nhất cùng với nhân dân làm nên Đất Nước – hai tiếng yêu thương.

Nếu như bắt rễ được vào trí nhớ trong hình thái toàn vẹn là lẽ sống còn của thơ, thì các bản trường ca quả đã gặp nhiều khó khăn. Dân mình trong một quy mô lớn mà đi tới toàn bích, thật thiên nan vạn nan. Đọc một trường ca nào đó, thường người ta hay nắm cái Tứ lớn, cái Cốt chung, rồi nhớ vài mảng, vài đoạn lẻ hay nhất đây đó, chứ khó nạp vào bộ nhớ tất tật. Nói khác đi, trường ca thường sống bằng cách xé lẻ bàn thân mình. Việc người đọc dường như quên đi phần lớn các chương khác của “Mặt đường khát vọng”để chỉ nhớ mỗi chương “Đất nước”, phải chăng là thuộc vào cái quy luật nghiệt ngã đó? Nhưng một bản trường ca dài rộng mà ghim vào trí nhớ người đọc được cả một chương lớn chẳng phải đã là thành công sao! Nghĩ thật vui: cùng viết về một đề tài, cũng là thành công tiêu biểu cho thi ca của hai cuộc kháng chiến, nhưng, nếu “Đất nước’ của Nguyễn Đình Thi được hình thành từ hai “tiền thân” nhỏ hơn, thì “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm lại vỡ ra từ một chỉnh thể lớn hơn. Vì điều đó, chúng đã cùng sống bước vào kí ức của người yêu thơ? không hẳn. Còn bời một tương phản khác đáng kể hơn: Nguyễn Đình Thi chừng như đã hoà tan suy tư của mình vào cảm xúc Trong khi ở Nguyễn Khoa Điềm cảm xúc muốn kết tinh lại trong suy tư Người ta có thể nói đến hiện tượng đốt cháy trái tim lên thành trí tuệ và đốt cháy trí tuệ lên thành tình cảm. Phải chăng hai tác giả kia với hai thi phẩm của mình đã phần nào ứng với hai suy cảm đó? Sự chuyển hóa trong tư duy thơ ở thi phẩm Nguyễn Khoa Điềm có thể gọi là trữ tình triết luận.

Ai đã đọc “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm đểu thấy nể độc đáo trước nhất thuộc về chất liệu của nó: chất liệu văn hoá dân gian

Nhưng tìm đến chất liệu này cũng là hướng đi của không ít cây bút. Trước đó ở nhưng mức đậm nhạt khác nhau, có thể thây chất liệu này có mặt trong “Bài thơ quê hương” của Nguyễn Bính, hay “Tiếng Việt” của Lưu Quang Vũ những thi phẩm gần gũi về đề tài Cho nên, tính độc đáo thực sự phải nằm ở việc xử lí chất liệu ấy Nguyễn Khoa Điềm đã xử lý bằng lối suy cảm triết luận trữ tình vậy.

Điểm mấu chốt khiến tác giả mài sắc lối suy cảm triết luận và huy động vốn văn hoá dân gian hết sức bề bộn của mình chính là một cảm hứng riêng về cái đề tài chung ấy. “Đất nước là gì? Đất nước của ai dường như đó là những câu hỏi xoáy sâu vào trong niềm trăn trở của Nguyễn Khoa Điềm. Nó đòi được trả lời. Để tìm kiếm câu trả lời, thi sĩ đã dùng trí tuệ đốt cháy những cảm xúc của mình thành những ngẫm ngợi, những đúc kết, có tầm khái quát cao sâu, đã dùng một suy cảm vừa giàu triết lí vừa thơ mộng để nhào nặn tái tạo lại toàn bộ vốn văn hoá nhân gian của mình đặng lắng nghe từ cao biểu tượng dân gian quá ư quen thuộc những tiếng nói hết sức bất ngờ, những nghĩa lý như chưa từng nghe thấy. Và tiếng nói tập trung nhất của mọi biểu tượng văn hoá dân gian mà thi sĩ nghe thấu chính là: Đất nước ở trong ta. Đất nước ở quanh ta và Đất nước của nhân dân – “trong anh và em hôm nay đều có một phần Đất nước/ Khi hai đứa cầm tay Đất nước hài hoà nồng thắm/ Khi chúng ta cầm tay mọi người/Đất nước vẹn tròn to lớn”, “Đất nước của nhân dân/Đất nước của ca dao thần thoại”… Vì thế, dù muốn dù không, sự sắc sảo của một tư duy đã giúp thi sĩ đột phá vào chiều sâu của vấn để triển khai sự trả lời của mình trên những bình diện cơ bản nhất cấu thành một Đất nước. Toàn bài là một dòng tâm sự tuôn chảy khá tự nhiên phóng túng. Nhưng đúng là nhìn sâu vào cái dòng chảy luôn có xu hướng tràn lan ấy vẫn thấy suy tư của người làm thơ xoáy vào ba bình diện chính là: bề rộng không gian lãnh thổ, chiều dài thời gian lịch sử và bề dày văn hoá. Ba bình diện ấy đan xen chuyển hoa sang nhau trong cùng một dòng chảy tràn trề trào ra từ một bầu tâm huyết bỏng cháy đối với đất nước mình. Chính điều này cho thấy rõ lối suy cảm triết luận trữ tình ở Nguyễn Khoa Điềm ở đây đã đạt đến độ nhuần nhuyễn thế nào.

Nét chủ đạo trong tư duy triết luận trữ tình là đào sâu cái bản chất của các sự vật dưới dạng những biểu tượng thi ca sống động. Tư duy ấy chuyển động dựa trên mạch logic biện chứng với những mối liên hệ thật bất ngờ kỳ thú. Câu thơ định nghĩa ở đây thật lợi hại, nó vừa là những mệnh đề triết học vừa là những hình tượng thơ truyền cảm. Hình dung về sự sinh thành của Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm thấy nó là sự sinh trưởng của Đất và Nước, cùng sự sinh sôi của các địa danh. Tìm kiếm văn hoá, thi sĩ tìm thấy những giá trị văn hoá lớn lao ẩn ngay trong những vật phẩm nhỏ nhoi tầm thường… Ở đâu cũng loé sáng những phát hiện, những khám phá bất ngờ. Có lẽ đối với bất cứ Tổ quốc nào, thì hai thành phần khởi đầu, hai “nguyên tố”, hai tế bào khởi đầu cho mọi sự sinh thành đểu phải là Đất và Nước. Hai nguyên tố này kết hợp với nhau để rồi từ có mà sinh thành cái cơ thể đất đai, nước non, xứ sở. Nguyễn Khoa Điềm đã suy cảm về lãnh thổ bắt đầu từ hai ” nguyên tố” ấy .

Chỉ bằng trực cảm cũng có thể thấy đoạn thơ trên là một loạt những định nghĩa bằng thơ, chúng là sản phẩm của một tư duy vừa giàu chất trữ tình thơ ca. vừa mang tính huyền thoại, vừa thấm đượm phong vị triết học. Không phải ngẫu nhiên mà Đất tương ứng với Anh, Nước tương ứng với Em. Một yếu tố thuộc Âm. Một yếu tố thuộc Dương. Khi nói riêng về từng người thì Đất và Nước cũng đứng tách riêng thành hai chữ, nhưng đến khi Anh với Em hò hẹn, để hợp lại thành Ta thì Đất và Nước cũng liền lại với nhau thành Đất Nước. Như vậy chẳng phải Đất và Nước hoà hợp cùng với tình yêu và trong tình yêu của con người hay sao ? Từ đó bắt đầu sự sinh sôi. Và khi Em nhớ Anh thì cả Đất Nước dường như cũng sống trong nỗi nhớ thầm. Cho nên câu thơ “Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” là một câu thơ đẹp, trong đó tình yêu đôi lứa đã hoà hợp làm một với tình yêu non sông đất nước. (Xin mở một ngoặc đơn để ghé nhìn sang Nguyễn Đình Thi. Khác với ở Nguyễn Khoa Điềm, hai biểu tượng làm công cụ chính để cho tác giả suy cảm về “Đất nước” lại là Mặt đất và Bầu trời). Cứ thế Đất nước lớn lên trong tình yêu. Cả tình yêu của phạm vi đôi lứa. cả tình yêu trong phạm vi cộng đồng. Tư duy triết luận cứ mở rộng mãi để bao quát sự sinh thành, trưởng thành, mở mang của toàn thể Đất Nước:

Song song với quá trình hình thành Đất và Nước để tạo ra địa bàn cư trú của người Việt suốt mấy nghìn năm qua là sự sinh sôi của các địa danh. Mỗi một địa danh không phải là một dòng tên vô nghĩa. Đằng sau mỗi tên đặt, tên làng, tên núi, tên sông là những cuộc đời; mỗi cuộc đời là một kì tích, một huyền thoại Một mảnh đất chưa có tên là một miền đất hoang chưa có lịch sử, chưa có sự sống đích thực của con người. Vì thế, khi địa danh lan đi đến đâu thì đất đai được mở rộng đến đó. Nó là dấu ấn về sự sinh tồn của dân tộc này. Lan theo những địa danh, Nguyễn Khoa Điềm đã dựng lại được cả diện mạo của non sông đất nước. Mỗi địa danh đều làm rung động sâu tâm linh của con người: Núi Bút non Nghiên. Hòn Vọng Phu Hòn Trống Mái, Vịnh Hạ Long, Sông Cửu Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen. Bà Điểm… Mỗi địa danh là một cuộc đời, mỗi cuộc đời hóa thân thành sông núi:

Điều đó cũng có nghĩa: chính Nhân Dân đã gây dựng, mở mang, truyền giữ đất nước này.

Lối suy cảm triết luận trữ tình trước khi tác động vào trái tim người đọc, thường khi phải vòng qua trí tuệ của họ. Hay như Chế Lan Viên nói: Tư duy phải đi trước một bước. Cách tác động phổ biến nhất (hữu hiệu nhất?) của nó phải chăng là tạo ra các nghịch lý? Các chân lý thi ca thường đi vào sự tiếp nhận của người yếu thơ triết luận trong y phục nghịch lý. Người ta không khỏi ngỡ rằng. Nghĩa là câu thơ kia có một phút ngập ngừng. Nhưng sau phút ngập ngừng bên ngưỡng cửa của sự tiếp nhận, nó bước thẳng vào ký ức người ta rồi ờ lì, bám rễ vào tâm khảm. Cho nên, nghịch lý (hay hình thức có tính phi lý) là sự hiện hình phổ biến cho những suy cảm ở thi phẩm này. Tôi muốn nói đến những câu thơ khi Nguyễn Khoa Điềm trầm tư triết luận về Văn hoá.

Thống nhất với lối viết về các bình diện bề rộng không gian, chiều dài thời gian – ghi công cho những người vô danh, nghiền ngẫm về bề dày văn hoá, thi sĩ này cũng không nhắc đến các công trình nổi danh thuộc nền văn hoá bác học. Không kế những công trình kiến trúc như Chùa Một Cột, Chùa Bút Tháp …, không kể những công trình điêu khắc như Phật Bà nghìn mắt nghìn tay, Mười tám vị La Hán Chùa Tây Phương… cũng không điểm đến những tác phẩm văn chương bất hủ như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Lục Vân Tiên v.v.„ Đó cũng là những công trình hết sức tiêu biểu cho nền văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, đó là thứ Văn hoá dễ thấy, nó cũng giống những người anh hùng hữu danh lưu trong sử sách, ở đây, Nguyễn Khoa Điềm quan tâm nhiều hơn đến thứ văn hoá khác: những sản phẩm văn hóa nhỏ nhoi bình thường đến tầm thường, quen thuộc đến quen nhàm trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường dửng dưng quên lãng Đất nước đã được phát hiện từ một câu chuyện cổ tích, một câu ca dao vất vưởng trôi nổi ở chốn thôn quê được phát hiện từ cái kèo. cái cột nôm na. từ vị gừng cay muối mặn mộc mạc, từ cách làm ra hạt gao dãi dầu một nắng hai sương, từ cách bới tóc sau đầu của những người mẹ Việt. Tất cả khiến cho người đọc sững sờ: hoá ra chẳng phải nhọc công tìm kiếm Đất nước ở đâu xa. Trái lại, đất nước ở quanh ta. Đất nước ở trong ta, và ở ngay những gì đơn sơ thân thuộc nhất.

Advertisement

Song, có lẽ bất ngờ hơn cả vẫn là phát hiện này:

Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn

Câu thơ là một nghịch lý, phi lý. Đất nước là một khái niệm lớn lao, thiêng liêng, hệ trọng, tại sao lại có thể nằm trong một miếng nhỏ nhoi, tầm thường, không có gì quan trong? Đi tìm sự khởi thuỷ của một đất nước, nghĩa là phái ngược thời gian trở về với ngọn nguồn xa xưa, sao lại bắt đầu với miếng trầu của “bây giờ”? Câu thơ xem ra thật phi logic nhưng ngẫm nghĩ ta sẽ thấy rằng cái phi logic kia chỉ là hình thức của câu thơ. Tác giả đã mượn một hình thức phi lý để chứa đựng một chân lý. Đóp là: một đất nước dù lớn đến đâu cũng bắt đầu từ những cái nhỏ nhoi, vô số những cái nhỏ nhoi mới làm nên sự lớn lao. Nói cách khác không có những cái nhỏ nhoi như miếng trầu thì cũng không có sự lớn lao như đất nước. Thì ra mỗi miếng trầu ngỡ như vô nghĩa kia đều gánh trong nó một phần Đất nước. Mỗi miếng trẩu bà ăn hôm nay đều đã có bốn nghìn năm tuổi ! Mỗi cái hiện diện trong hôm nay, của bây giờ, phía đằng sau có cả một lịch sử lâu dài. Vì thế quá khứ luôn có mặt trong hiện tại, lịch sử vẫn đang hiện diện đến hôm nay.

Những câu thơ như thế thật là một sự phát kiến bất ngờ, khiến người đọc phải giật mình. Nó không chỉ là một sản phẩm của một tư duy sắc sảo. Mà trước hết nó là sản phẩm của một tình yêu, một tấm lòng Nếu không có sự trân trọng với tất cả những gì mà tổ tiên chắt chiu, chi chút, gìn giữ trong mấy nghìn năm qua, thì mọi thứ triết luận dù sắc sảo đến đâu cũng không thể có được những câu thơ có thể đánh động vào tầng sâu của tâm linh người đọc đến thế được. Mối giao kết giữa yếu tố trữ tình và yếu tố triết luận trong mọi suy cảm thi ca chân chính chẳng phải là tuân theo cái cơ chế đó sao?

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ ca kháng Mĩ cứu nước. Thơ của Nguyễn Khoa Điềm lấy chất liệu từ văn học Việt Nam và cảm hứng từ quê hương, con người, và tình thần chiến đấu của người chiến sĩ Việt Nam yêu nước… Những tác phẩm của ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người Việt Nam. Trong kháng chiến chống Mỹ, thơ của Nguyễn Khoa Điềm thể hiện rõ được con người Việt Nam và bản chất anh hùng bất khuất của chiến sĩ Việt Nam.

Đất nước trích Chương V, trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm. Đây là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất Nước trong thơ Việt Nam hiện đại. Đoạn trích thể hiện một cái nhìn mới mẻ về đất nước: Đất nước là sự hội tụ và kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân là người làm ra đất nước. Tất cả được thể hiện qua ngòi bút đậm chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc chính luận và trữ tình đặc sắc.

Chính luận: Đoạn thơ có thiên hướng chính luận khi nhà thơ bộc lộ quan niệm, tư tưởng chính trị xã hội của mình và muốn chia sẻ nhận thức, thuyết phục người đọc tin tưởng vào tính đúng đắn khách quan của những quan niệm tư tưởng đó. Tính chiến luận có tính chiến đấu cao và tính cá nhân sâu sắc. Trữ tình: Là tâm trạng, cảm xúc, tình cảm của nhà thơ trước hiện thực cuộc sống mà tác giả gửi gắm vào trong tác phẩm của mình. Đoạn thơ Đất Nước là sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố Chính luận và Trữ tình, giữa lí trí và tình cảm. Đoạn thơ mang đậm chất suy tưởng, triết lý.

Thức tỉnh ý thức dân tộc của mỗi người dân, đặc biệt là thanh niên, học sinh vùng đô thị miền Nam để phá tan âm mưu của Mỹ – Ngụy. Qua đó khẳng định tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Đất Nước được cảm nhận một cách toàn diện, sâu sắc, đầy đủ từ nhiều góc độ: Văn hóa, lịch sử, con người, địa lí,… Giúp mỗi người dân thấm sâu lòng yêu nước, thấy được trách nhiệm của mình đối với đất nước. Tấm lòng yêu nước nồng nàn sâu sắc chi phối toàn bộ cảm hứng nghệ thuật của tác giả. Yêu nước chính là yêu văn hoá, thiên nhiên, con người lao động – chủ nhân của lịch sử đất nước. Niềm tự hào sâu sắc về vẻ đẹp tự nhiên, vẻ đẹp do nhân dân sáng tạo nên.

Đoạn “Những người vợ nhớ chồng…. đã hoá núi sông ta”. Đoạn thơ thấm đẫm chất trữ tình. Ở đó nhà thơ bộc lộ lòng trân trọng sâu sắc những cuộc đời, những con người đã hóa thân một cách cao đẹp vào hình hài của Đất Nước. Cảm xúc đó bộc lộ thật dạt dào nồng nàn và tha thiết. Lời thơ là lời tâm tình giữa anh, em, giữa ta với người. Nhưng đoạn thơ cũng là một lập luận nhằm thuyết phục và chia sẻ nhận thức : Thiên nhiên, lịch sử, văn hoá… của Đất Nước. Tất cả đều do nhân dân xây dựng, tất cả là của nhân dân. Nhìn vào thiên nhiên sông núi tươi đẹp kia (Núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái, những ao đầm làng Gióng, núi Bút, non Nghiên,…) liệu nơi nào lại không hiện diện hình ảnh nhân dân ?

Tính chính luận làm cho nội dung tư tưởng của đoạn thơ thêm sâu sắc. Yếu tố trữ tình làm cho đoạn thơ có sức lay động, truyền cảm, biến tưu tưởng, quan niệm, nhận thức thành cảm hứng nghệ thuật. Sự kết hợp hai yếu tố này sao cho nhuần nhuyễn, hiệu quả thực không dễ, nhưng NKĐ đã làm được. Đó là thành công lớn của đoạn trích Đất Nước.

Nhìn nhận Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm từ sự kết hợp hai yếu tố chính luận và trữ tình đã đem đến cho người đọc một góc nhìn mới mẻ về bài thơ này. Đoạn thơ là sáng tạo nghệ thuật nổi bật của tác giả trong đoạn trích Đất Nước nói riêng và thiên trường và Mặt đường khát vọng nói chung.

Với thể thơ tự do phóng túng, giọng thơ suy tưởng: đặt câu hỏi và tự trả lời, sử dụng các chất liệu văn hoá dân gian kết hợp với giọng thơ chính luận và trữ tình đặc sắc, đoạn thơ thể hiện những cảm nhận mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều phương diện: lịch sử, địa lí, văn hóa… Tư tưởng trọng tâm, bao trùm toàn bộ bài thơ là tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.

Văn Mẫu Lớp 7: Phân Tích Bài Thơ Bánh Trôi Nước (Dàn Ý + 8 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Hay Nhất Lớp 7

Phân tích bài thơ Bánh trôi nước

I. Mở bài

Giới thiệu đôi nét về tác giả Hồ Xuân Hương, bài thơ Bánh trôi nước.

II. Thân bài

1. Hình ảnh chiếc bánh trôi nước

– Hình dáng bên ngoài: màu sắc (vừa trắng), hình dáng (vừa tròn).

– Cách thức làm bánh:

Luộc bánh trong nước, khi nào bánh nổi lên mặt nước có nghĩa là đã chín.

Rắn hay nát phụ thuộc vào tay người nặn.

– Nhân bánh: thường được làm bằng đường phên (tấm lòng son).

2. Hình ảnh người phụ nữ

– “Thân em” – mô típ quen thuộc trong ca dao xưa:

*

*

– Hình ảnh ẩn dụ: “bánh trôi” để chỉ người phụ nữ.

– Ngoại hình của người phụ nữ được miêu tả: “vừa trắng lại vừa tròn” gợi ra một thân hình khá đầy đặn, nước da trắng hồng. Đó là chuẩn mực của người phụ nữ đẹp trong xã hội xưa.

– Số phận của người phụ nữ:

“Bảy nổi ba chìm”: cuộc đời vất vả, gặp nhiều gian truân.

“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nạn”: số phận phải phụ thuộc vào người khác, không được tự mình quyết định. (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử – Ở nhà thì nghe theo cha, lấy chồng thì nghe theo chồng, chồng chết thì nghe theo con).

“Mà em vẫn giữ tấm lòng son”: Dù cuộc đời có khó khăn, khổ cực thì người phụ nữ vẫn giữ được tấm lòng thủy chung, son sắc và không thay đổi.

III. Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Bánh trôi nước”.

Bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương đã thể hiện sự trân trọng trước vẻ đẹp, phẩm chất trong trắng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ niềm thương cảm cho cuộc đời lận đận của họ:

Bài thơ mang hai nét nghĩa. Trước hết là nét nghĩa tả thực – miêu tả hình ảnh bánh trôi nước. Tác giả đã miêu tả hình dáng bên ngoài: màu sắc (vừa trắng), hình dáng (vừa tròn). Cùng với đó là cách thức làm bánh luộc bánh trong nước, khi nào bánh nổi lên mặt nước có nghĩa là đã chín. Bên trong nhân bánh thường được làm bằng đường phên. Viên bánh rắn hay nát phụ thuộc vào tay người nắn có khéo léo. Hình ảnh tả thực chiếc bánh trôi từ hình thức đến cách thức.

Nhưng không chỉ mang nét nghĩa như vậy, Hồ Xuân Hương còn muốn nói đến vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa qua hình ảnh “bánh trôi nước”. Mở đầu bằng cụm từ “thân em” – đây là một mô-típ đã rất quen thuộc trong ca dao:

Hay như:

Ở bài thơ “Bánh trôi nước” hay các bài ca dao, dân ca đều xuất phát từ niềm thương cảm, xót xa cho số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ là những con người nhỏ bé trong xã hội. Cuộc đời trôi nổi, bấp bênh và không được tự quyết định cuộc sống của bản thân, chịu sự chi phối của người khác.

Vẻ đẹp của người phụ nữ hiện lên “vừa trắng lại vừa tròn” gợi ra một thân hình khá đầy đặn, nước da trắng hồng. Đó là chuẩn mực của người phụ nữ đẹp trong xã hội xưa. Xinh đẹp là vậy, nhưng cuộc đời lại nhiều bất hạnh. Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” gợi ra một cuộc đời vất vả, gặp nhiều gian truân. Câu thơ “rắn nát mặc dầu tay kẻ nạn” đã nói lên số phận phải phụ thuộc vào người khác, không được tự mình quyết định. Nhưng dù có chịu nhiều bất hạnh, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương vẫn gìn giữ được tâm hồn cao quý: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. : Dù cuộc đời có khó khăn, khổ cực thì họ vẫn giữ được tấm lòng thủy chung, son sắc và không thay đổi. Hình ảnh người phụ nữ hiện lên với đầy đủ nét đẹp từ ngoại hình đến tâm hồn. Bài thơ sử dụng ngôn ngữ bình dị, hình ảnh ẩn dụ, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt cô đọng, hàm súc… nhằm làm nổi bật nên ý nghĩa mà nhà thơ muốn gửi gắm.

Như vậy, “Bánh trôi nước” là một tác phẩm giàu giá trị nhân văn sâu sắc. Từ đó, chúng ta cần phải trân trọng, yêu thương những người phụ nữ hơn.

Chúng ta đang sống trong trong một xã hội bình đẳng, dân chủ – nơi mà con người được hưởng tất cả những quyền tự do, hạnh phúc. Nơi không có chiến tranh, không có áp bức, không có bất công hay phân biệt đối xử. Đó chính là một cuộc sống mà con người ta hằng mong ước. Nhưng đó lại là điều xa xỉ ở trong xã hội cũ. Con người khao khát bình đẳng, khao khát quyền làm chủ, đặc biệt là người phụ nữ. Điều đó lại càng thể hiện rõ hơn trong bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương.

Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hương sử dụng mô-típ quen thuộc “thân em” để có thể ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ. Hình ảnh người phụ nữ hiện lên với vẻ đẹp đầy đặn, mặn mà. Chỉ bằng hình ảnh chiếc bánh trôi nước, nhưng gợi lên cho người đọc sự thuần khiết, tinh khôi của người phụ nữ – những người đáng ra phải nhận được sự quan tâm, chở che và bảo vệ.

Nhưng cuộc đời họ lại chịu nhiều cay đắng. Ở câu thơ thứ hai, tác giả đã sử dụng câu thành ngữ “bảy nổi ba chìm” một cách khéo léo, đầy tinh tế để gợi tả về số phận “bất hạnh” của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị chà đạp, bị những định kiến của xã hội làm cho cuộc đời bấp bênh, trôi nổi, không biết đến ngày mai. Cái thân phận yếu ớt, mảnh mai ấy làm sao có thể chịu được những sóng gió, vùi dập, cứ lênh đênh không có một bến bờ để neo đậu. Không cần dùng những câu nói hay những động từ có tác động mạnh đến người đọc, nhưng những hình ảnh ẩn dụ của Hồ Xuân Hương lại có ấn tượng mạnh mẽ đến vậy. Người phụ nữ trong xã hội ấy, họ không được định đoạt số phận, không được “quyền” quyết định hạnh phúc của mình mà cứ thế phó mặc cho cuộc đời đưa đẩy. Đọc đến câu thơ này, nhiều người đọc sẽ phải thốt lên: “Làm sao có thể để cho người phụ nữ chân yếu tay mềm, yếu ớt nhưng vậy phải gánh chịu những bão bùng của cuộc đời, vậy phải chăng trên thế gian này không còn ai giống “Từ Hải” để có thể cứu giúp những thân phận người phụ nữ đầy bất hạnh như Thúy Kiều nữa?”

Cái thân phận yếu mềm, tủi nhục và không biết đến ngày mai ấy cứ phó mặc cho cuộc đời, phó mặc cho “kẻ nặn” cái quyền được “điều khiển” cuộc đời mình. Dù họ có vùng vẫy như thế nào đi chăng nữa thì cuộc đời họ cũng không thể thoát khỏi được. Vậy vì sao lại vậy? Vì sao họ lại tiếp tục căm chịu như vậy? Phải chăng do họ sợ? Không, bởi vì họ nhận thức sâu sắc rằng, dù họ có làm gì đi chăng nữa thì cũng không thể nào có thể chống lại những định kiến của xã hội, đã được bồi đắp hàng nghìn năm. Cái chế độ khiến con người ta đi vào bế tắc và không muốn phản kháng lại nữa. Vậy biết đến bao giờ họ mới có thể có một cuộc sống tự lập riêng cho chính mình, để họ có thể được sống theo ý mình, để họ có thể được làm chính họ?

Giọng thơ dù thể hiện nỗi đau, sự tủi nhục, cam chịu của người phụ nữ nhưng vẫn giữ thái độ kiên trì, bền vững “tấm lòng son” – một biểu hiện tượng trưng cho phẩm chất thủy chung, son sắt, một lòng một dạ với chồng với con. Dù cho họ bị vùi dập đến đâu, dù có đau khổ đến nhường nào họ vẫn sẽ là một người vợ, người mẹ, người con hiếu thảo, chịu thương chịu khó, hết mực với chồng với con. Đó chính là phẩm chất ngàn đời của người phụ nữ Việt không thể thay thế được. Câu thơ thể hiện niềm tự hào và biểu lộ cảm xúc mạnh mẽ của tác giả: sự đồng cảm sâu sắc đối với những người phụ nữ đang là “tù nhân” của xã hội phong kiến và sự phẫn nộ đối với những “kẻ nặn” – những kẻ trực tiếp gây ra những nỗi đau cho chính những người phụ nữ đáng ra họ phải được hưởng nhiều hơn là cam chịu như vậy.

Bài thơ dù rất ngắn nhưng lại khắc họa được hình ảnh về người phụ nữ Việt Nam thông qua hình ảnh bánh trôi nước. Tác giả mong muốn thông qua bài thơ, góp một tiếng lòng, sự đồng cảm sâu sắc đối với những người phụ nữ và thức tỉnh những “kẻ nặn” – hãy biết trân trọng và thương yêu những người phụ nữ ở bên cạnh mình.

“Bánh trôi nước” là một trong những bài thơ nổi tiếng của Hồ Xuân Hương. Bài thơ vừa cho thấy vẻ đẹp và số phận người phụ nữ trong xã hội cũ, đồng thời cho thấy tấm lòng nhân văn cao cả.

Bài thơ có hai lớp nghĩa chính, lớp nghĩa thứ nhất là lớp nghĩa tả thực, miêu tả bánh trôi nước từ hình dáng cho đến cách làm. Bánh trôi có hình tròn, màu trắng. Làm bánh trôi bằng cách viên thành hình tròn nhỏ vừa ăn, bên trong bánh trôi là một viên đường nhỏ, thường được làm bằng đường phên hoặc đường phèn. Khi luộc thấy bánh lên tức là bánh đã chín. Bài thơ đã mô tả một cách chân thực, chính xác về món ăn dân dã, quen thuộc của nhân dân ta.

Nhưng ẩn đằng sau lớp nghĩa tả thực đó lại là lớp nghĩa ẩn dụ hết sức tinh tế, sâu sắc, hình ảnh bánh trôi cũng chính là hình ảnh biểu tượng cho người phụ nữ. Mở đầu bài thơ tác giả sử dụng mô típ quen thuộc trong văn học dân gian “Thân em”. Hai chữ thân em nói lên nỗi đau thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Tiếng thơ của Hồ Xuân Hương có sự đồng điệu, gặp gỡ với những tiếng hát than thân trong ca dao:

Việc Hồ Xuân Hương sử dụng các ngữ liệu dân gian vừa khiến cho thơ bà gần gũi, mềm mại với đời sống, mặt khác làm cho tiếng thơ trở nên da diết, thấm đầy chất nhân bản, trở thành tiếng thơ của bao người.

Ngay từ câu thơ đầu tiên của bài, bà đã khẳng định vẻ đẹp của người phụ nữ: trắng, tròn, họ mang vẻ đẹp phúc hậu, hiền từ. Lời khẳng định này cũng cho thấy bà rất có ý thức về bản ngã của mình nói riêng và của những người phụ nữ nói chung.

Mang vẻ đẹp về hình thức, ý thức được vẻ đẹp đó, nhưng số phận của họ lại hết truân chuyên, vất vả:

Thân phận của họ cũng chẳng khác gì những tấm lụa đào, hạt mưa sa,… người con gái trong xã hội cũ không được tự quyết định số phận, hạnh phúc của mình. Khi ở nhà họ phụ thuộc vào cha mẹ, cha mẹ đặt đâu họ phải ngồi ở đó, đến lúc đã yên bề gia thất số phận của họ lại tiếp tục bị phụ thuộc vào người chồng. Những người phụ nữ này thật nhỏ bé và đáng thương, cuộc đời chìm nổi với biết bao sóng gió, hạnh phúc của bản thân không được tự mình quyết định.

Mặc dù cuộc sống không được suôn sẻ, luôn gặp phải những sóng gió nhưng những người phụ nữ ấy lại mang trong mình những phẩm chất hết sức tốt đẹp:

“Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

Họ là những người phụ nữ luôn mang trong mình tấm lòng trong trắng, tốt đẹp, dù gặp cảnh ngộ nào cũng vẫn giữ được tấm lòng son sắt, thủy chung. Chữ “son” như một điểm sáng, nhãn tự trong bài, làm bừng sáng nét đẹp về nhân cách, phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam.

Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc. Sử dụng nghệ thuật ẩn dụ đặc sắc. Kết hợp linh hoạt các mô típ của văn học dân gian khiến cho bài thơ vừa giản dị, gần gũi vừa mang dáng dấp uyên bác, tài hoa. Tất cả những yếu tố đó đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm

Tác phẩm đã ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ không chỉ ở phẩm chất mà ngay cả vẻ đẹp bề ngoài. Bài thơ cũng là tiếng nói cảm thông với số phận chìm nổi, bị lệ thuộc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Trong xã hội phong kiến xưa, người phụ nữ luôn phải chịu những bất công, những định kiến đầy nghiệt ngã của xã hội. Một trong những tác phẩm viết về số phận của người phụ nữ là bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ Hồ Xuân Hương đã gợi mở những hình ảnh của những chiếc bánh trôi nước. Bánh trôi nước là loại bánh làm bằng bột gạo nếp, qua bàn tay của những người nghệ nhân thì khi nặn xong chúng có hình dạng tròn trịa cùng một màu trắng đặc trưng của gạo. Ở trong bài thơ này, nhà thơ Hồ Xuân Hương đã mượn hình ảnh của những chiếc bánh trôi nước để nói về cuộc sống và số phận của những người phụ nữ trong xã hội xưa. Hiểu như thế ta có thể thấy qua hình ảnh tròn, trắng của những chiếc bánh trôi gợi ra vẻ đẹp bên ngoài, vẻ đẹp hình thể của những người phụ nữ.

Đó chính là một vẻ đẹp tươi mới, tròn trịa, đầy sức sống “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Nhưng đối nghịch với vẻ đẹp đầy sức sống đó lại là một số phận, tương lai đầy mịt mờ, tăm tối “Bảy nổi ba chìm với nước non”. Về ý nghĩa tả thực, ta có thể hiểu đây là là quá trình luộc chín bánh, hoàn thành bước cuối cùng. Nhưng đây cũng chỉ là một hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. Bởi nó gợi ra số phận, cuộc đời đầy thăng trầm, biến đổi của những người phụ nữ. Như đã nói, trong xã hội xưa, sinh ra trong thân phận của người phụ nữ vốn đã là một thiệt thòi, bất công.

Bởi từ khi sinh ra đến lúc dựng vợ gả chồng thì họ hoàn toàn không được quyết định bất cứ vấn đề gì, kể cả tình yêu, đối tượng kết hôn, hạnh phúc của cả cuộc đời mình, vì trong xã hội xưa có quan niệm “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, hay “xuất giá tòng phu”, nghĩa là một khi đã lấy chồng thì mọi việc đều phải theo chồng. Vì vậy mà số phận thăng hay trầm đều hoàn toàn dựa vào người chồng của mình:

Đến câu thơ này thì ý niệm của hai câu thơ đầu được thể hiện, triển khai một cách rõ nét, cụ thể hơn. Nếu như những chiếc bánh trôi tròn, méo, rắn, nát đều phụ thuộc vào tay người nặn, nếu như được họ cẩn trọng, nâng niu thì khi hoàn thành chiếc bánh sẽ có hình tròn mà màu trắng trong. Ngược lại, nếu người nghệ nhân vô tâm, hời hợt thì chiếc bánh sẽ bị méo mó, và khi luộc trong nước sẽ bị vỡ. Đối với người con gái trong xã hội xưa cũng vậy, nếu may mắn gặp được người cũng biết yêu thương, trân trọng thì cuộc sống của học sẽ hạnh phúc, vui vẻ; còn khi lấy phải người chồng độc đoán, vũ phu thì họ sẽ có cuộc sống đau khổ, bất hạnh. Nhưng dẫu cuộc sống có bất biến, phù du thì những người con gái ấy vẫn giữ được vẻ đẹp trong trắng thủy chung trong tâm hồn. Đến đây thì hình ảnh của những người phụ nữ trong xã hội xưa được hoàn thiện, không chỉ có vẻ đẹp ngoại hình mà vẻ đẹp tâm hồn của họ rất đáng được trân trọng.

Advertisement

Mượn hình ảnh của những chiếc bánh trôi, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã xây dựng thành công hình ảnh của người phụ nữ xưa, đó là những người phụ nữ có vẻ đẹp toàn diện, không chỉ là vẻ đẹp hình thức mà còn là vẻ đẹp của tâm hồn. Dẫu có những bất hạnh, đau khổ thì vẻ đẹp tâm hồn ấy không những không mất đi mà còn sáng rực lên những tia sáng của phẩm chất, đạo đức. Thông qua bài thơ, nhà thơ cũng thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

Đến với thơ của Bà Huyện Thanh Quan chúng ta thưởng thức được những lời thơ trang nhã, mang tính chất cung đình, luôn gợi nỗi buồn man mác. Ngược lại học thơ của Bà Hồ Xuân Hương ta lại gặp một phong cách hoàn toàn khác. Giọng điệu thơ mạnh mẽ, rắn rỏi, đề tài thơ bình thường dân dã, ý thơ sâu sắc thâm thuý, chua cay, chất chứa nỗi niềm phẫn uất, đả kích xã hội đương thời. Bánh trôi nước là một bài thơ quen thuộc thể hiện rõ phong cách thơ của bà.

Toàn bài thơ là một hình ảnh tượng trưng. Nhờ tài quan sát, nhờ khả năng liên tưởng kì lạ, Hồ Xuân Hương đã phát hiện được những nét tương đồng giữa chiếc bánh trôi nước tầm thường và hình ảnh cũng như cuộc đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cả hai đều có vẻ bề ngoài đẹp (trắng, tròn) có tâm hồn cao quý (tấm lòng son), cuộc sống chìm, nổi, lênh đênh (trong nồi nước sôi luộc bánh cũng như trong cuộc đời), không làm chủ được số phận của mình. Chính những nhận xét riêng rất mới này, hình tượng thơ đã được xây dựng. Nhà thơ ngay từ những từ đầu tiên đã nhân hóa cái bánh trôi, gắn liền những chi tiết tả thực với những từ ngữ đa nghĩa tạo lên một trường liên tưởng rộng rãi cho người đọc. Do đó, bài thơ tả thực mà hàm nghĩa tượng trưng, nói về cái bánh trôi với đầy đủ đặc điểm của nó mà thành chuyện người phụ nữ chìm nổi trong cuộc đời. Người con gái ở đây có hình thể thật đẹp, da trắng nõn nà, thân hình đầy đặn, xinh xắn, có tâm hồn thật trong trắng nhân hậu hiền hoà: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”

Lẽ ra với vẻ đẹp như thế, nàng phải có cuộc đời sung sướng. Nhưng không, cuộc đời nàng phải long đong, vất vả, phiêu dạt, chìm nổi không chỉ một lần, trong cuộc đời rộng lớn: “Bảy nổi ba chìm dưới nước non”. Người phụ nữ không làm chủ được cuộc đời, số phận của họ do người khác định đoạt, nàng bị phũ phàng, vùi dập: “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”. Nhưng không, dù đời có phũ phàng, dù trải bao bất hạnh người phụ nữ vẫn giữ trọn vẹn phẩm giá và tâm hồn cao đẹp của mình. “Mà em vẫn giữ tấm lòng son” ở đây ta lại thấy được tài năng sáng tạo của nữ sĩ.

Ngay trong câu thơ đầu, tác giả đã chọn chi tiết không nhiều nhưng chọn kĩ và tả đúng với đặc điểm của chiếc bánh và tác giả chỉ cần đặt trước những từ miêu tả ấy hai từ thân em. Câu thơ lại sinh động hẳn lên. Thân em lời xưng hô của cái bánh được nhân hoá mà đó cũng chính là lời của người phụ nữ tự giới thiệu. Nhờ hai từ này, trí tưởng tượng của người đọc được chắp cánh và hình ảnh người phụ nữ đẹp hiện ra trong tâm trí mọi người. Cặp quan hệ từ “vừa… lại vừa” phụ trợ cho tứ thơ khiến giọng thơ hàm chứa một ý thức và một chút hài lòng kiêu hãnh về vẻ đẹp hình thể đó.

Thế nhưng sang câu thứ hai giọng thơ đột ngột chuyển hẳn. Từ thoáng chút hài lòng, tự hào chuyển sang than vãn về số phận hẩm hiu. Đảo lại một thành ngữ quen thuộc (ba chìm bảy nổi), nhà thơ đã tạo nên cách nói mới, nhấn mạnh hơn vào sự long đong. Thành ngữ này đi liền với hình ảnh vừa trắng vừa tròn tạo ra sự đối lập bất ngờ càng tô đậm nỗi bất hạnh của người phụ nữ. Cụm từ với nước non đi kèm theo hình ảnh bảy nổi ba chìm như một lời oán trách: Tại sao xã hội bất công lại vùi dập cuộc đời người phụ nữ như vậy?

Và từ giọng than vãn lời thơ lại chuyển sang giọng ngậm ngùi cam chịu “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”, người phụ nữ không làm chủ được cuộc đời mình mà phụ thuộc vào tay kẻ khác. Nhưng đến câu cuối cùng giọng thơ, ý thơ đột ngột chuyển lại: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Kết cấu đối lập được tác giả khai thác triệt để, đó là sự đối lập giữa thái độ người phụ nữ trong câu ba và câu bốn, đối lập giữa thái độ cam chịu và thái độ quả quyết bảo vệ phần trong sáng trong tâm hồn con người. Sự đối lập này tràn ra cả ngôn từ “Mặc dù… mà em vẫn giữ…” chỉ quan hệ đối lập nhưng do đặt vị trí đầu câu lại được tăng cường thêm của từ vẫn khiến cho ý nghĩa đối lập càng thêm sắc, mạnh. Từ mà là một “nhãn từ” (chữ hay nhất trong câu thơ) nói lên một cách dõng dạc và dứt khoát sự kiên trì cố gắng đến cùng để giữ tấm lòng son. ở đây người phụ nữ dám đối lập tấm lòng son với tất cả sóng gió, bảy nổi ba chìm của cuộc đời. Đó là người phụ nữ có ý thức rất rõ về cuộc sống và phẩm chất của mình. Đó là lời khẳng định giá trị đáng kính của người phụ nữ.

Bài thơ vỏn vẹn chỉ có bốn câu, đề tài lại là sự vật bình thường nhưng dưới ngòi bút thần diệu, Hồ Xuân Hương đã tạo nhiều vẻ. Bài thơ chứa đựng một luồng ánh sáng ý thức về xã hội bất công vùi dập người phụ nữ và ý thức về giá trị, phẩm giá của người phụ nữ chân chính, của con người luôn giữ tấm lòng son dù ở bất cứ hoàn cảnh nào.

Tóm lại, có thể nói “Bánh trôi nước” là bài thơ trữ tình đặc sắc của Hồ Xuân Hương. Đây là tiếng nói của người phụ nữ tự bộc bạch mình, là lời oán ghét sự bất công đối với người phụ nữ đồng thời cũng là lời khẳng định giá trị tâm hồn của họ. Nhà thơ đã thay mặt giới phụ nữ cất lên tiếng nói ấy cũng là lời bà tự khẳng định mình.

Thơ vịnh chỉ thực sự có ý nghĩa khi có sự gửi gắm tình cảm, tư tưởng của nhà thơ. Bài thơ của Hồ Xuân Hương, vì thế, còn là lời tự bộc bạch của một tấm lòng phụ nữ. Ta có thể nói nhà thơ mượn lời cái bánh trôi để nói lên thân phận và tấm lòng người phụ nữ.

Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương là một bài vịnh độc đáo: vịnh một món ăn dân tộc, dân gian. Thiếu một bàn tay, một tâm hồn phụ nữ dân dã như bà thì có lẽ cái bánh trôi nước chưa đi vào được văn học.

Trước hết, bài thơ vịnh của Hồ Xuân Hương rất tài tình:

Đây là lời tự giới thiệu của bánh: từ hình dáng, cấu tạo và cách chế tạo. Bánh trôi làm bằng bột nếp, nhào nước cho nhuyễn, rồi nặn thành hình tròn như quả táo, bọc lấy nhân bằng đường đen, nước sôi thì bỏ vào luộc, khi chín thì bánh nổi lên. Người nặn bột làm bánh phải khéo tay thì bánh mới đẹp, nếu vụng thì bánh có thể bị rắn hay bị nhão. Nhưng dù thế nào thì bánh vẫn phải có nhân. Thiếu nhân, bánh sẽ rất nhạt nhẽo. Đọc bài thơ, ta thấy hiện lên đúng là bánh trôi nước, không sai một li.

Thân trắng vừa tả cái bánh bằng bột trắng, vừa tả tấm thân trắng đẹp, phẩm hạnh trong trắng. Tròn vừa có nghĩa là em được phú cho cái hình dáng tròn, lại vừa có nghĩa là em làm tròn mọi bổn phận của em.

Bảy nổi ba chìm là thành ngữ chỉ sự trôi nổi, lênh đênh của số phận giữa cuộc đời. Nước non là sông, biển, núi, non, chỉ hoàn cảnh sống, suy rộng ra là đời, cuộc đời con người.

Đây là hình ảnh may rủi mà đời người phụ nữ rơi vào. Trong xã hội cũ trọng nam khinh nữ, số phận người phụ nữ đều do người đàn ông định đoạt. Cho nên người con gái trong ca dao cảm nhận:

Những câu ca dao thể hiện một ý thức an phận, cam chịu. Cái duy nhất họ làm chủ được là tấm lòng mình: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Người phụ nữ vẫn giữ niềm thuỷ chung, son sắt, bất biến với mối tình. Một lời nói thể hiện niềm tự hào kín đáo về phẩm chất thuỷ chung của người phụ nữ. Tuy nhiên, cả bài thơ vẫn thấm đượm nỗi cảm thương cho thân phận. Thân trắng, phận tròn mà phải chịu cảnh ba chìm bảy nổi, không làm chủ được mình.

Chúng ta đang được sống trong một thế giới tràn đầy hạnh phúc,một thế giới có sự bình đẳng về chủng tộc về mọi tầng lớp dân tộc. Mà trong ta có ai biết được trong xã hội xa xưa người phụ nữ phải chịu đựng một quan niệm cổ hữu sai trái “trọng nam khinh nữ”. Sống trong hoàn cảnh đó ,cũng mang trong mình số phận người phụ nữ Hồ Xuân Hương đã viết nên tác phẩm “Bánh trôi nước”.

Bài thơ miêu tả hình ảnh chiếc bánh trôi, nhưng thực chất là muốn nói về vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”

Tác giả đã sử dụng mô típ ca dao quen thuộc “Thân em” để người phụ nữ có thể hóa thân vào những chiếc bánh trôi nước dân dã đáng yêu. Hàm chứa bên trong vẫn là ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ biến họ thành những đóa hoa xinh đẹp, lộng lẫy và thắm tươi nhất của cuộc đời. Làm cho cuộc sống này thêm tươi đẹp thêm màu sắc.

“Bảy nổi ba chìm với nước non”

Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” được vận dụng tài tình nhằm gợi tả số phận người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa. Để bày tỏ nỗi xúc động thương cảm của bà Hồ Xuân Hương đứng trước số phận lênh đênh chìm nổi chẳng biết đi về đâu của người phụ nữ. Chỉ mặc cho số phận định đoạt. Tôi tự hỏi: “Một người phụ nữ đẹp đến mà vì lẽ gì phải chịu đựng cuộc đời như vậy, chẳng lúc nào được sống trong cuộc sống vui vẻ hạnh phúc?” Tại sao những người đàn ông to lớn khỏe mạnh như thế mà không chịu những số phận khổ cực mà bắt những phụ nữ nhỏ bé kia phải gánh lấy chứ?

“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” – Tác giả sử dụng một biện pháp kinh tế: đảo ngữ. Nói lên người phụ nữ phải sống lệ thuộc. “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Lúc ở nhà thì phụ thuộc vào cha, cha bảo gì làm nấy chằng giám làm trái, khi lập gia thất thì phải cung phụng cho chồng, cũng chẳng dám làm sai. Lúc chồng mất sống phận của mình phải nương nhờ vào con của mình. Trên cuộc đời này làm gỉ có quan niệm vô lí đến thế! Vậy biết bao giờ họ mới có được cuộc sống riêng tự lập cho chính bản thân mình. Họ phải đau khổ biết bao để chịu đựng những thứ đao lí như thế.

“Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

Giọng thơ tự hào quả quyết biểu thị thái độ kiên trì, bền vững. “Tấm lòng son” tượng trưng cho phẩm chất sắc son thủy chung, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam đối với chồng con, với mọi người tuy bị cuộc sống phụ thuộc, đối xử không công bằng trong cuộc đời. Câu thơ thể hiện niềm tự hào và biểu lộ khá đậm tính cách của Hồ Xuân Hương: cảm thương cho người phụ nữ, căm phẫn đối với người chồng

Bài thơ nói về người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua hình ảnh bánh trôi nước – một món ăn dân tộc bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân gian. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã được Việt hóa hoàn toàn. Thơ hàm súc đa nghĩa giàu bàn sắt Xuân Hương. Bài thơ biểu lộ niềm thông cảm và tự hào đối với số phận, thân phận và của người phụ nữ Việt Nam nó có giá trị nhân bản đặc sắc. Nữ sĩ viết với tất cả lòng yêu mến, tự hào bản sắc nền văn hóa Việt.

Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương là một bài vịnh độc đáo: vịnh một món ăn dân tộc, dân gian. Thiếu một bàn tay, một tâm hồn phụ nữ dân dã như bà thì có lẽ cái bánh trôi nước chưa đi vào được văn học.

Trước hết, bài thơ của Hồ Xuân Hương rất tài tình:

Đây là lời tự giới thiệu của bánh: từ hình dáng, cấu tạo và cách chế tạo. Bánh trôi làm bằng bột nếp, nhào nước cho nhuyễn, rồi nặn thành hình tròn như quả táo, bọc lấy nhân bằng đường đen, nước sôi thì bỏ vào luộc, khi chín thì bánh nổi lên. Người nặn bột làm bánh phải khéo tay thì bánh mới đẹp, nếu vụng thì bánh có thể bị rắn hay bị nhão. Nhưng dù thế nào thì bánh vẫn phải có nhân. Thiếu nhân, bánh sẽ rất nhạt nhẽo. Đọc bài thơ, ta thấy hiện lên đúng là bánh trôi nước, không sai một li.

Nhưng qua hình ảnh chiếc bánh trôi, Hồ Xuân Hương còn muốn nói đến vẻ đẹp, số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Trong xã hội cũ trọng nam khinh nữ, số phận người phụ nữ đều do người đàn ông định đoạt. Cho nên người con gái trong ca dao cảm nhận:

Những câu ca dao thể hiện một ý thức an phận, cam chịu. Cái duy nhất họ làm chủ được là tấm lòng mình. Người phụ nữ vẫn giữ niềm thuỷ chung, son sắt, bất biến với mối tình. Một lời nói thể hiện niềm tự hào kín đáo về phẩm chất thuỷ chung của người phụ nữ. Tuy nhiên, cả bài thơ vẫn thấm đượm nỗi cảm thương cho thân phận. Thân trắng, phận tròn mà phải chịu cảnh ba chìm bảy nổi, không làm chủ được mình.

Có thể khẳng định rằng bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương giàu giá trị nhân văn sâu sắc.

Văn Mẫu Lớp 12: Nghị Luận Xã Hội Về Đừng Sợ Vấp Ngã Dàn Ý & 2 Bài Văn Mẫu Lớp 12 Hay Nhất

Dàn ý nghị luận đừng sợ vấp ngã

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: không sợ vấp ngã.

Lưu ý: Học sinh tự lựa chọn cách viết mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân mình.

2. Thân bài

a. Giải thích

Không sợ vấp ngã: dám đối đầu với mọi khó khăn, thử thách gây cản trở, làm khó dễ cho bản thân; dám lao vào làm những điều mà người khác e sợ.

b. Phân tích

– Biểu hiện của người không sợ vấp ngã:

Dám nghĩ dám làm, dám đương đầu với mọi khó khăn, thử thách mà không hề sợ sệt, ngại ngùng.

Khi gặp khó khăn trong cuộc sống luôn cố gắng vươn lên, càng khó khăn càng kiên cường bước tiếp.

Đứng trước việc người khác dè dặt, sợ sệt không dám làm thì bản thân dám xông xáo vào làm những việc đó.

– Lợi ích, ý nghĩa của việc không sợ vấp ngã:

Khi dám làm những việc mà người khác không dám làm, con người ta sẽ đạt được những thành quả mà người khác không thể đạt được.

Người không sợ vấp ngã là người có đức tính tốt đẹp, đây cũng là người có tinh thần thép, mạnh mẽ, quyết đoán và tự chủ cuộc sống của chính họ.

Những người không sợ vấp ngã là tấm gương sáng để con người chúng ta học tập và noi theo.

c. Chứng minh

Học sinh tự lấy dẫn chứng minh họa cho bài làm văn của mình về những con người sống với lòng can đảm, không sợ vấp ngã và nhận về thành công rực rỡ.

Lưu ý: dẫn chứng phải xác thực, gần gũi, tiêu biểu và được nhiều người biết đến.

d. Phản biện

Tuy nhiên trong cuộc sống vẫn còn có nhiều con người sống nhút nhát, không dám làm những việc mà bản thân mình đặt ra, lại có người sợ thất bại mà nản chí, lùi bước về sau,… những người này đáng bị xã hội thẳng thán lên án, phê phán.

3. Kết bài

Khái quát lại vấn đề nghị luận: không sợ vấp ngã, đồng thời rút ra bài học, liên hệ bản thân.

Nghị luận về đừng sợ vấp ngã – Mẫu 1

Đã bao lần bạn vấp ngã mà không hề nhớ. Lần đầu tiên chập chững bước đi, chắc chắn bạn đã bị ngã. Lần đầu tiên tập bơi, bạn đã bị uống rất nhiều nước và suýt chết đuối. Lần đầu tiên chơi bóng bàn, bạn đã không hề đánh được quả nào ra hồn. Không sao đâu vì tất cả mỗi người để bước đi được những bước đi vững chãi đầu tiên đều ít nhất phải có một vài lần vấp ngã. Đừng sợ vấp ngã. Điều vinh quang nhất của con người không phải ở chỗ không bao giờ vấp ngã, mà chính là vươn lên từ mỗi lần vấp ngã. Giống như Anten, nếu tự mình đứng dậy, bạn sẽ mạnh mẽ hơn.

Vấp ngã có nghĩa là gặp phải hoàn cảnh khó khăn, trở ngại khiến ta không thể đạt đến mục đích trong công việc và trong cuộc sống. Ở đây, vấp ngã có thể hiểu thất bại, khiến ta bị tổn thương, gây cho ta sự đau đớn. Vấp ngã hay thất bại có thể do hoàn cảnh, cũng có thể do chính bạn.

Vấp ngã hay thất bại vốn là một phần của cuộc sống. Và thành công cũng thế. Không có vấp ngã sẽ không thể có thành công. Nói như vậy không hẳn đã đúng nhưng chính mỗi lần vấp ngã sẽ khiến chúng ta cẩn trọng hơn trong công việc, nhận biết rõ những sai lầm và nâng cao quyết tâm khởi tạo lại từ đầu một cách chắc chắn hơn. Chính những lần vấp phải thất bại đã tăng cường ở con người nguồn sức mạnh mới hơn, lớn hơn.

Có vấp ngã ta mới làm lại và rút ra những kinh nghiệm quý báu cho bản thân, điều mà chúng ta thường xem nhẹ trước khi thất bại. Có vấp ngã ta mới biết mình còn nhiều yếu kém cần phải sửa chữa, còn nhiều sai lầm cần phải khắc phục, còn nhiều khuyết điểm cần phải khắc chế. Giải quyết xong những hạn chế ấy, chắc chắn bạn sẽ trở nên mạnh mẽ và tự tin hơn.

“Vạn sự khởi đầu nan” đúng như lời ông cha ta nói. Không có việc gì dễ làm mà mang lại thành quả lớn lao. Hãy khống chế nỗi sợ hãi để bước qua được những gian nan đầu tiên đó, chắc chắn con đường tương lai sẽ rộng mở trước mắt bạn và thành công sẽ đến với bạn không xa. Đừng sợ vấp ngã bởi khó khăn hay thất bại là những nấc thang đưa bạn tới thành công. Không có nó, bạn sẽ trở nên chủ quan, kiêu ngạo. Chính kiêu ngạo và chủ quan sẽ khiến bạn thất bại nhanh nhất.

“Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con cổng trường mở ra”. – nhà văn Lý Lan trong bài viết Cổng trường mở ra đã viết như thế. Câu văn ấy như một minh chứng cho sự kiên cường và tinh thần tự lập, mà cha mẹ muốn nhắn gửi đến các con. Vì vậy, sống trên đời là không chịu thua trước số phận, không lùi bước trước khó khăn và hơn thế nữa là “đừng sợ vấp ngã” nếu mai này giông tố cuộc đời có đến bủa vây ta.

Người không nản lòng trước khó khăn hay thất bại thường tràn đầy nghị lực vươn lên. Họ là những người giàu ý chí, kiên định với mục tiêu, lúc nào cũng sẵn sàng đương đầu với khó khăn thử thách, tự tin hướng đến tương lai tốt đẹp. Trên bước đường thành công, những khó khăn trở ngại là không thể tránh khỏi. Đừng thấy sóng cả đã vội ngã tay chèo.

Không đầu hàng trở ngại chính là bản năng mạnh mẽ nhất của con người. Lúc bé thơ, dù có ngã đau, ta vẫn vui vẻ đứng lên và đi tiếp. Không có gì khác ngoài sự kiên cường, tinh thần tự lập đã xuất hiện trong ta từ khi còn nhỏ. Chỉ là khi lớn lên, do nhiều yếu tố ngoại cảnh, thời gian làm ta quên dần đi bản năng sinh tồn ấy.

Con người cần phải dũng cảm đứng lên sau mỗi lần thất bạị, phải thể hiện bản lĩnh, kiên định ý chí, phát huy tài năng của mình trước thử thách vì “thất bại là mẹ thành công”. Đừng sợ vấp ngã, đừng bao giờ bỏ cuộc dù cuộc sống có khắc nghiệt đến thế nào.

Cuộc đời có lắm đau thương, có lắm biến động thì con người ta mới trưởng thành và vững chãi hơn. Đừng bao giờ nản lòng chùn bước hay than trách oán giận. Vấp ngã để ta trở nên mạnh mẽ, kiên cường và dung hòa giữa mọi thứ để sống tốt, sống bền với đời. Vấp ngã để cảm nhận được tình yêu thương, sự giúp đỡ, biết tôn trọng, yêu thương mọi người xung quanh ta hơn nữa.

Chỉ có người nào đã một lần trượt ngã mới biết được cái trắc trở của đường đi. Nếu đời người không một lần vấp ngã, con người sẽ trở nên kiêu ngạo, tự đắc bản thân, xem thường khó khăn thử thách, sống liều lĩnh và cố chấp. Lúc đó, không những ta sống sai mà tình người cũng mất.

Biết khiêm nhường để học hỏi, rút kinh nghiệm, hoàn thiện bản thân, con người mới có sức mạnh để chiến thắng hoàn cảnh. Kẻ kiêu căng tự mãn là kẻ dễ bị thất bại nhất.

Trong cuộc sống, để chiến thắng bản thân, chiến thắng nghịch cảnh không có sức mạnh nào mạnh hơn ý chí kiên định và niềm tin vào bản thân. Tin tưởng vào bản thân và hướng đến những giá trị hữu ích khiến ta không sợ vấp ngã.

Nhà bác học Edison hơn nghìn lần thất bại mới chế tạo ra được bóng đèn chiếu sáng. Dân tộc nhật Bản đã xây dựng một đất nước hùng cường từ đóng đổ nát sau chiến tranh. Tổng thống vĩ đại Nelson Mandela dẫu bị giam cầm, bị tra tấn trong một quãng thời gian dài đến 27, bằng sức mạnh của lòng vị tha và tinh thần hòa giải, ông đã hàn gắn hố sâu mâu thuẫn sắc tộc, mở ra kỷ nguyên mới cho Nam Phi sau hàng chục năm xung đột. Chính vì điều đó, Nelson Mandela trở thành biểu tượng mạnh mẽ của phong trào chống phân biệt chủng tộc trên toàn thế giới. tất cả là minh chứng hùng hồn cho tinh thần vượt qua vấp ngã để vươn đến thành công vĩ đại.

Vấp ngã sẽ không phải là thất bại nếu bạn dám đứng lên và bước tiếp. Thất bại chỉ đến khi bạn không chịu đứng dậy khi vấp ngã. Thất bại là cơ hội để con người khởi đầu một lần nữa một cách hoàn hảo hơn. Những ai đầu hàng khó khăn và số phận thì thật đáng trách. Họ bị hoàn cảnh khuất phục. Họ quá hèn nhát và yếu đuối.

Không phải liều lĩnh là đem lại kết quả tốt đẹp nhưng gượng dậy sau mỗi lần vấp ngã là rất cần thiết. Hành động liều lĩnh, quyết liệt là một tinh thần dũng mãnh, một nghị lực phi thường và yếu tố quan trọng nhất chính là đối mặt trước thất bại để rèn luyện cho mai sau nhưng nó cũng có thể đẩy ta vào chỗ hiểm nguy do nóng vội, thiếu suy xét. Nếu tạo hoá tô lên cuộc đời bạn màu đen, hãy tự tin vẽ lên đó những vì sao lấp lánh.

Có những người vì sợ vấp ngã mà không dám bước đi, không dám hành động. Họ đã bỏ qua nhiều cơ hội để thành công mà cứ ngỡ rằng nó chưa từng đến. Những người như thế thật yếu đuối, kém cỏi, không thể nào có được thành công đích thực trong cuộc sống này.

Mọi thứ đều có thể làm lại được nếu ta còn tồn tại và mong muốn làm điều đó. Thế nên, bạn đừng sợ vấp ngã. Nếu mai này cuộc đời có trắc trở, có đổi thay, hãy bắt lấy niềm tin, nuôi dưỡng ước mơ như một đứa con tinh thần để từ đó làm động lực mà đi lên. Chúng ta luôn được nâng đỡ bởi gia đình. Dẫu có vấp ngã, đã có những người xung quanh ta chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ. Nhưng sẽ không gì sánh bằng được với ý chí và nội lực của bản thân. Có thành công hay có thất bại, tất cả đều phụ thuộc vào chính bản thân mình.

Không vấp ngã trước cuộc sống, điều đó là rất tốt. Khi vấp ngã rồi, hãy đứng dậy mà đi lên càng tốt hơn. Lời khuyên “Đừng sợ vấp ngã” của người đời như một chân lý hết sức đúng đắn. Mỗi chúng ta nên tu dưỡng ý chí, rèn luyện tính kiên trì nhẫn nại để học tập và theo đuổi mục đích, ước mơ hoài bão tốt đẹp của mình.

Nghị luận về không sợ vấp ngã – Mẫu 2

Cuộc sống là một chuỗi khó khăn, khắc nghiệt đến mức nếu bạn yếu lòng đầu hàng trước nó thì bạn sẽ thua, thua một cách đầy thảm bại. Khi bản thân rơi vào lòng sâu của sự nghiệt ngã số phận, bạn sẽ hiểu được rằng ý chí vươn lên không gục ngã là cách duy nhất giúp bạn vươn lên và sống tốt trong cuộc sống này.

Trước hết chúng ta phải hiểu thế nào là “không gục ngã”?

Khi gặp khó khăn, còn người ta thường phân vân giữa hai lựa chọn. Một là chùn bước hoặc loay hoay tìm lối thoát, hai là dấn bước với tất cả ý chí và sức mạnh, không gục ngã để đương đầu với thử thách. Không có khó khăn nào dễ đánh gục con người hơn tinh thần nhưng tinh thần rồi cũng như một khó khăn mà bạn cần phải vượt qua. Nó giống như một viên đá vô hình vô tình bạn vấp phải rồi gục ngã, và rồi chẳng ai giúp được bạn ngoài bản thân bạn. Lúc này, bạn với vết thương đau nhưng vẫn gồng mình đứng dậy và bước tiếp, đó gọi là ‘’không gục ngã’’.

Tôi từng biết đến những con người đến từ những vùng đất khác nhau, ẩn sau họ là những câu chuyện cuộc đời dài lê thê. Bất hạnh có, đau khổ có, bế tắc có nghèo khó có, tàn tật có, nhưng họ lại có một điểm chung đáng quý : là dù rằng cuộc đời có nhấn chìm họ dưới đáy kiệt cùng của vực sâu thì với bản năng con người cùng ý chí vươn lên, không gục ngã vẫn thôi thúc họ tiếp tục bước tiếp.

Nhà sản xuất phim hoạt hình nổi tiếng Walt Disney nhớ lại thất bại cay đắng của những ngày đầu vào nghề, khi ông bị ông chủ tòa soạn báo sa thải vì khả năng sáng tạo kém. “Khi đó tôi mới 21 tuổi, không tiền bạc, không danh vọng. Tôi gần như sụp đổ khi ngày nào cũng phải ngủ trên chiếc sopha rách tươm, ăn mãi một món khoai tây nghiền và phải sống trong căn nhà ổ chuột”. Walt Disney đã sống như vậy trong suốt một thời gian dài, để chúng ta, và cả thế hệ con cháu chúng ta, được những trận cười nắc nẻ trước những bộ phim hoạt hình vui tươi và đầy tính sáng tạo của ông.

Advertisement

Nicholas James Vujicic – nhà diễn thuyết truyền động lực người Úc gốc Serbia, khi sinh ra đã không có tứ chi. Từ thuở ấu thơ, anh đã phải đấu tranh về cả tinh thần, tình cảm cũng như thể xác với số phận của mình, nhưng rồi thay vì đau đớn mặc cảm, anh lại quyết định đối mặt với khuyết tật. Để rồi năm 17 tuổi, bằng tất cả nỗ lực và quyết tâm của mình, anh thành lập tổ chức phi lợi nhuận của riêng mình với tên gọi “Life Without Limbs”. Anh đi khắp nơi trên thế giới để diễn thuyết truyền động lực về cuộc sống của một người khuyết tật mang hi vọng và mong muốn tìm được ý nghĩa của cuộc sống.

Điều gì đã khiến những số phận đau thương ấy có thể vượt qua muôn vàn gian nan để khẳng định được bản thân mình? Họ đã tạo dựng cuộc sống tươi đẹp hơn từ khó khăn gian khổ, thử thách bằng sự kiên trì, nhẫn nại và quyết tâm chiến thắng số phận. Họ đã không đánh mất đi niềm tin yêu vào cuộc sống, không gục ngã trước những đau đớn. Và hơn hết, họ đã khẳng định cho tất cả chúng ta một chân lí: mỗi con người đều có khả năng cảm hóa những nổi đau và ưu phiền trong cuộc sống của mình thành niềm vui và hạnh phúc.

Từ những tấm gương trên, phần nào đã cho chúng ta những bài học hay. Cuộc sống vốn chứa đựng những khó khăn và thử thách, đừng để những trở ngại ấy làm giảm đi ý nghĩa trong cuộc sống bạn. Thất bại, điều đó có thể xảy ra đối với bạn, nhưng thất bại một lần không có nghĩa những lần tiếp theo bạn vẫn thất bại, cũng như nhà phát minh vĩ đại Albert Einstein từng phát biểu “Tôi tư duy từ ngày này qua ngày khác và từ năm này sang năm khác . 99 lần tôi kết luận sai và đến lần thứ 100 thì tôi đúng”. Thực tế đã chứng minh được mọi thứ, biến những định nghĩa khô khan thành hiện thực.

Hãy sống hết lòng vì ngày hôm nay, hãy đừng dại dột mà từ bỏ bản thân mình mà hãy đương đầu, đừng để bản thân gục ngã giữa giông tố cuộc đời. Trong sự tối tăm mù mịt của cuộc đời, khi bạn biết vươn lên và không gục ngã, chắc chắn ánh sáng sẽ hiện hữu, sưởi ấm trái tim đầy đau thương kia. Vì bạn đã được sống, nên không bao giờ là muộn để bắt đầu dứng dậy !

Lê Hoàng Nhật Vy 12C2 THCS – THPT Tân Phú, Quận Tân Phú, Tp Hồ Chí Minh

(Giải Ba môn văn Thành phố Hồ Chí Minh năm học 2014 – 2023)

Văn Mẫu Lớp 12: Nghị Luận Xã Hội Về Kỹ Năng Sống (2 Dàn Ý + 13 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Lớp 12

Dàn ý nghị luận xã hội về kỹ năng sống

Dàn ý số 1

1. Mở bài

Giới thiệu, dẫn dắt đến vấn đề cần nghị luận

2. Thân bài

a. Giải thích khái niệm

– “Kĩ năng sống” chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu cầu và thách thức của cuộc sống có hiệu quả; đó cũng là khả năng của mỗi cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh.

b. Bàn luận

– Vai trò của việc rèn luyện kĩ năng sống:

Cuộc sống hiện đại đòi hỏi mỗi cá nhân phải không ngừng cập nhật giá trị và hoàn thiện giá trị của mình. Để tồn tại và phát triển, với bất kì ai, không chỉ cần học tập bồi dưỡng, nâng cao kiến thức mà còn phải rèn luyện kĩ năng sống để không ngừng nâng cao chất lượng đời sống để đời sống thực sự là sống chứ không là tồn tại.

Kĩ năng sống giúp con người ứng xử linh hoạt và hiệu quả nhất trước những tình huống nảy sinh trong cuộc sống.

Kĩ năng sống giúp mỗi người bình tĩnh, tự tin vào bản thân, dám khẳng định năng lực, sở trường của mình.

Những người có kĩ năng sống tốt thường dễ thành đạt hơn trong cuộc sống.

– Nếu không có kĩ năng sống tốt thì:

Con người thiếu tự tin, thiếu chủ động khi cuộc sống nảy sinh những vấn đề phức tạp.

Con người sẽ khó thành công hơn trong cuộc sống, không dám thể hiện, khẳng định mình trong các môi trường hoạt động.

c. Bài học

Nhận thức: Kỹ năng sống có vai trò rất quan trọng đối với tất cả mọi người, nhất là giới trẻ.

Hành động: Bên cạnh tích lũy kiến thức hàn lâm từ nhà trường, sách vở,… mỗi người cần thường xuyên trau dồi, rèn luyện, bồi dưỡng kĩ năng sống – kĩ năng mềm để dễ dàng thích nghi với cuộc sống hiện đại.

3. Kết bài

Khẳng định lại vấn đề

Dàn ý số 2

1. Mở bài

Giới thiệu về vấn đề cần nghị luận: ” Kĩ năng sống”

2. Thân bài

– Kỹ năng sống là gì?

– Vai trò, tầm trong trọng của kỹ năng sống trong cuộc sống

+ Kỹ năng sống đối với thế hệ trẻ

+ Những vấn đề gặp phải khi thiếu kỹ năng sống

– Phương pháp để học kỹ năng sống

– Mở rộng vấn đề

3. Kết bài

Khẳng định tầm quan trọng của kỹ năng sống

Nghị luận về kỹ năng sống – Mẫu 1

Nhà thơ người Đức Johann Wolfgang Goethe đã từng đưa ra một triết lí sống:

Thực vậy, xã hội ngày càng phát triển, kéo theo biết bao nhiêu là bộn bề phức tạp của cuộc sống đặt ra, đòi hỏi con người cần phải thực sự mạnh mẽ và tỉnh táo để có thể đương đầu, vượt qua trở ngại. Vì thế, để có thể bắt nhịp cùng với xu thế của thời đại, cũng như đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống đặt ra, con người hiện đại không những cần ra sức chiếm lĩnh tiếp thu kiến thức mà còn cần phải chăm chỉ học tập rèn luyện kĩ năng sống cho bản thân mình. Cho nên việc rèn luyện kĩ năng sống cũng quan trọng như việc tiếp thu kiến thức vậy!.

Trước hết, ta cần làm rõ khái niệm kĩ năng sống là gì?. “Kĩ năng sống” là những khả năng tương tác và thích nghi với hoàn cảnh, môi trường sống hay trước một tình huống nào đó được đặt ra trong cuộc sống. Đây là tập hợp tất cả các kĩ năng mà con người tiếp thu được, tích lũy được qua quá trình giáo dục và trải nghiệm trong thực tế khác quan như: kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng giao tiếp hiệu quả, kĩ năng đồng cảm hoặc kĩ năng phục hồi tâm lý mà theo như UNICEF gọi đó là khả năng tâm lý – xã hội. Còn “kiến thức” là những tri thức, là vốn hiểu biết của con người được nghiên cứu, tích lũy trong sách vở, truyền từ đời này sang đời khác. Câu nói: việc rèn luyện kĩ năng sống cũng quan trọng như là tích lũy kiến thức khẳng định tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống; đồng thời cần cân bằng giữa việc tích lũy kiến thức và kĩ năng sống, học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn, rèn luyện kiến thức gắn liền với rèn luyện các kĩ năng.

Kĩ năng sống có một vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống con người. Một con người có được những kĩ năng sống tốt sẽ thích nghi tốt hơn trong mọi hoàn cảnh sống, có thể ứng phó với mọi sự biến đổi bất thường trong cuộc sống, biến khó thành dễ, chuyển bại thành thắng, biến vất vả chông gai thành điều kiện, cơ hội. Chàng trai Nick Vujicic, một con người sinh ra đã thiếu tứ chi, ban đầu anh luôn mặc cảm về bản thân vì cho rằng mình chẳng giống ai, thậm chí là muốn kết thúc sự sống. Nhưng bằng sự động viên của cha mẹ và đặc biệt là sau khi đọc xong một bài báo viết về hình ảnh của một người cũng có hoàn cảnh như anh nên anh đã nỗ lực, vươn lên khẳng định mình trở thành một nhà diễn thuyết truyền cảm hứng sống và kĩ năng sống cho những con người thiếu may mắn như anh. Hay những cầu thủ U23 Việt Nam, nhờ tinh thần đoàn kết, kết hợp với kĩ năng hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, hiểu ý đồng đội trong quá trình thi đấu mà họ đã đem lại chiến thắng, đưa trận đấu vào trận chung kết của khu vực Châu Á 2023. Rèn luyện kĩ năng sống cũng giúp con người, đặc biệt là thế hệ trẻ có thể phát triển nhân cách, thể chất, tình cảm, giao tiếp, ngôn ngữ, tư duy một cách toàn diện, là nền tảng để giúp con người tự tin hơn trong cuộc sống. Về phương diện thể chất: giúp con người có sức khỏe tốt, cân đối, dẻo dai…; về phương diện tình cảm: bồi đắp cho con người tình yêu thương, sự sẻ chia, sự đoàn kết, gắn bó giữa con người với con người…; về phương diện ngôn ngữ và giao tiếp: giúp con người tự tin, giao tiếp hiệu quả, biết thuyết trình trước đám đông, biết lắng nghe, học hỏi mọi thứ xung quanh. Về phương diện tư duy nhận thức: kích thích sự sáng tạo, có những bước đột phá nhạy bén, đúng thời điểm cần thiết, năng động và dễ dàng ứng phó với mọi trở ngại bất thường. Ví dụ như ở Nhật Bản, một đất nước thường xuyên xảy ra động đất, núi lửa, sóng thần nên các trẻ em khi mới lớn lên đã được trang bị rất nhiều những kĩ năng sống để có thể chủ động ứng phó trước thiên tai, tự bảo vệ sự sống của mình trước những hiểm họa bất ngờ ập tới. Vì thế, những đứa trẻ đó thực sự rất tự tin trước những biến động của khí hậu, thời tiết thất thường. Bên cạnh đó, rèn luyện kĩ năng sống cũng giúp cho con người sống có bản lĩnh, có ước mơ, có lí tưởng sống tích cực, dám nghĩ dám làm, biết chịu trách nhiệm trước hành vi sai trái của bản thân, sống giàu lòng vị tha, tình thương yêu bác ái…

Tuy nhiên, cũng cần thấy được mối quan hệ giữa rèn luyện kĩ năng sống và tích lũy kiến thức là hai mặt của một vấn đề, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia. Nếu như kiến thức giúp con người có cơ sở lý luận khoa học, đúng đắn và chính xác trong nhìn nhận, đánh giá thì kĩ năng sống giúp cho con người trở nên kĩ xảo hơn, tinh tế, khéo léo hơn trong việc xử lí mọi tình huống bất kì nào đó được đặt ra. Trên thực tế có không ít người chỉ chăm lo tích lũy kiến thức mà quên đi việc trang bị cho mình những kĩ năng sống cần thiết hoặc ngược lại chỉ chú trọng tới kĩ năng sống mà bỏ bê việc trau dồi tri thức. Hậu quả là khó có thể bắt nhịp được với cuộc sống, luôn cảm thấy thiếu tự tin, không có hứng thú với cuộc sống, công việc của chính mình. Và hiện nay, có rất nhiều các bạn sinh viên, học sinh chỉ chú tâm vào bồi đắp kiến thức trên ghế nhà trường mà quên đi việc rèn luyện kĩ năng sống, tới khi va chạm với công việc, với những trải nghiệm thực tế thì cảm thấy ngại ngùng, lo lắng và thiếu niềm tin vào năng lực của bản thân mình. Hay cũng có những người chỉ biết quan tâm tới sự trải nghiệm thực tế với các kĩ năng sống của riêng mình mà quên đi việc tôi luyện kiến thức, dẫn tới sự vênh lệch về phát triển và hoàn thiện nhân cách của chính mình.

Vì thế, con người cần phải tự quăng mình ra ngoài xã hội. Hãy biết cách biến những lý luận khô khan trên trang sách thành những trải nghiệm thực tế khách quan để thấy được tính thực tiễn của chúng. Mặt khác cũng không nên chỉ chú trọng vào những kĩ năng sống, chỉ phục vụ cho nghề nghiệp chuyên môn của mình mà cần hình thành và rèn luyện các kĩ năng sống phong phú khác cần thiết để có thể đáp ứng được mọi tình huống, mọi vấn đề được đặt ra. Bởi cuộc sống vốn “đa sự, đa đoan” rất phong phú và phức tạp.

Tóm lại, rèn luyện kĩ năng sống và tích lũy kiến thức có một vai trò, ý nghĩa vô cùng quan trọng, cần thiết. Đặc biệt với thời đại xã hội phát triển như bây giờ thì lại càng đòi hỏi con người cần trang bị cho mình kiến thức, kĩ năng sống gắn với những năng lực tương thích lại càng lớn hơn. Có như vậy thì mới bắt kịp được với xu thế thời đại, khẳng định vị thế của bản thân đối với mọi người xung quanh.

Nghị luận về kỹ năng sống – Mẫu 2

Để có thể hòa nhập, thích ứng, sống và làm việc thành công trong cuộc sống hiện đại hôm nay, hành trang của bạn trẻ cần chuẩn bị nhiều thứ: tri thức, vốn văn hóa, ngoại ngữ, … đặc biệt là những kỹ năng sống cần thiết. Thiếu kỹ năng sống, thiếu kinh nghiệm làm việc, dễ bị lạm dụng, sống vô tâm là một thực trạng phổ biến trong giới trẻ ngày nay.

Đây chắc chắn là chuyện không của riêng ai: “con không biết nhặt rau, nấu ăn, giặt quần áo, quan tâm giúp đỡ người khác”. Ngay đến cả cái ăn cái uống cũng không biết tự phục vụ cho chính mình đã giống lên một hồi chuông cảnh tỉnh các bậc cha mẹ khi bấy lâu không chú trọng bồi dưỡng và rèn luyện kỹ năng sống cho con em mình.

Kỹ năng sống là tập hợp các hành vi tích cực và khả năng thích nghi cho phép mỗi cá nhân đối phó hiệu quả với các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày; nói cách khác là khả năng tâm lý xã hội. Đó là tập hợp các kỹ năng mà con người tiếp thu qua giáo dục hoặc trải nghiệm trực tiếp được dùng để xử lý các vấn đề và câu hỏi thường gặp trong đời sống con người.

Dẫn chứng về việc một bộ phận giới trẻ hiện nay thiếu kỹ năng sống một cách trầm trọng. Có bạn không biết quét lớp, vụng về lúng túng trong các hoạt động nhóm, không biết giải quyết tình huống bất ngờ: tai nạn giao thông, giao tiếp, …

Hiện tượng ấy không chỉ xảy ra đơn lẻ mà đã trở thành một hiện tượng phổ biến, một căn bệnh âm ỉ, có khả năng đe dọa trực tiếp đến tương lai của xã hội và giới trẻ hiện nay.

Thiếu kỹ năng sống, bạn trẻ không biết phục vụ bản thân thì làm sao trở thành một công dân biết sống cống hiến cho xã hội. Thiếu kỹ năng sống cần thiết làm lệch lạc cách nhìn nhận bản thân và thế giới xung quanh, không tạo dựng niềm tin, lòng tự trọng, thái độ tích cực và động lực cho bản thân để học tập tốt, lao động thành công.

Kỹ năng là một thành phần quan trọng của năng lực của con người. Thiếu kỹ năng sống, bạn trẻ khó hòa nhập với cuộc sống năng động hiện đại như ngày nay và khó thành công trong mọi việc. Các bạn có hiểu biết, có tri thức, nhưng thiếu kỹ năng sống, bạn trẻ sẽ giống như cái cây khô thiếu sinh khí, chỉ tồn tại mà không sống theo đúng ý nghĩa của cuộc sống.

Thiếu kỹ năng sống, các bạn trẻ sẽ không thể tự mình giải phóng và vận dụng năng lực tiềm tàng trong để hoàn thiện bản thân. Hầu hết các bạn trẻ ngày nay suy nghĩ theo lối mòn và hành động theo thói quen trên hành trình biến ước mơ thành hiện thực. Bởi thế, họ rất dễ bị lôi kéo vào những đám đông, bị cuốn hút bởi những thú vui tầm thường, thậm chí là nguy hại.

Kỹ năng sống giúp con người sống an toàn, làm được nhiều điều hữu ích, đóng góp sức mình xây dựng và phát triển xã hội. Thiếu kỹ năng sống khiến các bạn trẻ luôn hoang mang, sợ hãi, thiếu tự tin trước cuộc sống. Các bạn vẫn còn núp dưới cái bóng của gia đình, không dũng cảm tự lập, tự quyết tương lai. Thiếu kỹ năng sống khiến các bạn trẻ thường hành động nông nổi, tiêu cực.

Trước hết, việc giáo dục kỹ năng sống cho giới trẻ không được xem trọng từ gia đình và nhà trường. Với thói quen chăm lo cho con cái, gia đình bao bọc con em mình quá kỹ trong một môi trường không có thử thách khiến giới trẻ thiếu cơ hội để tự trải nghiệm, tự kết luận và đức kết bài học ,hình thành và hoàn thiện kỹ năng. Những “cậu ấm”, “cô chiêu” có thói quen ỷ lại, dựa dẫm… Nhiều gia đình nuông chiều con em mình quá mức khiến hoạt động trải nghiệm thực tế để học tập, rèn luyện kỹ năng và thái độ sống tích cực của giới trẻ bị hạn chế.

Nhà trường thiên về dạy kiến thức, định hướng nghề nghiệp, chưa thực sự quan tâm hay chú trọng dạy kỹ năng sống cho học sinh. Bởi thế, rèn luyện kỹ năng sống là một việc làm không được học sinh quan tâm đến, thậm chí là không hề biết. Do áp lực học hành thi cử, bạn trẻ không có đủ thời gian học những kỹ năng cần thiết cho mình…

Xã hội chưa quan tâm đến sự phát triển của giới trẻ. Khi nền kinh tế phát triển mạnh, con người bận rộn với công việc không còn thời gian để quan tâm đến các vấn đề chung nữa. Khoa học và công nghệ mở ra một thế giới mới cho phép giới trẻ có nhiều trải nghiệm song lại đưa đến những nguy hại khôn lường. Giới trẻ ngày càng lười biếng và vô cảm hơn.

Không có kỹ năng sống là căn bệnh ở một số bạn trẻ được nuông chiều quá mức, “hội chứng con một” hoặc quá tự đề cao bản thân chỉ muốn người khác phục vụ mình.

Gia đình và nhà trường cần phối hợp để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, tạo điều kiện để bạn trẻ phát huy khả năng… Bản thân mỗi học sinh cần tự thân vận động, không dựa dẫm vào cha mẹ, anh chị, bạn bè…

Kỹ năng sống là năng lực rất cần thiết đối với các bạn trẻ, giúp bạn sống cuộc đời có ý nghĩa. Là học sinh, chúng ta phải ra sức vừa học tập, và rèn luyện và hoàn thiện các kỹ năng sống cần thiết để xây dựng cuộc sống an toàn, thành công và hạnh phúc.

Hiện thực xã hội phơi bày trước mắt chúng ta biết bao sự việc về hiện tượng thiếu kỹ năng sống của các bạn trẻ, giống lên hồi chuông cảnh tỉnh cần thiết phải rèn luyện những kỹ năng sống cho bạn trẻ ngay từ trong gia đình đến trường học. Hãy bắt đầu ngay từ bây giờ. Sẽ không bao giờ là muộn nếu các bạn trẻ có đủ nghị lực và quyết tâm. Ngược lại, nếu các bạn buông bỏ, điều đó dự báo những điều tồi tệ sẽ đến ở tương lai.

Nghị luận về kỹ năng sống – Mẫu 3

Kỹ năng sống là một trong những kỹ năng rất cần thiết hiện nay mà hầu như tất ai cũng cần phải có. Xã hội phát triển dường như người ta không mấy quan tâm nhiều đến kiến thức lý thuyết mà thường quan tâm đến kỹ năng nhiều hơn.

Trước khi tìm hiểu về kỹ năng. Khái niệm kỹ năng bao là sự thành thạo công việc thể hiện qua năng lực, giải quyết vấn đề. Cách hiểu này nghiêng về mặt mặt kỹ thuật hành động. Kỹ năng chính là áp dụng tri thức khoa học vào thực tiễn, đảm bảo cho chủ thể biết cách tư duy đúng để tìm ra phương thức hành động đúng. Cách hiểu này nghiêng về năng lực của con người.

Tóm lại kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức, hiểu biết và thực tiễn, là hành động được thực hiện một cách thành thục, và thu được kết quả tốt, cụ thể kỹ năng là biết cách làm.

Con người phải có những kĩ năng nhất định để sống, để tồn tại. Ngoài những kỹ năng chung mà ai cũng phải có thì mỗi ngành nghề lĩnh vực khác nhau sẽ có những kỹ năng đặc biệt, phù hợp với ngành nghề của mình. Con người sẽ rất dễ nhận ra kỹ năng chuyên môn của mình, và có ý thức học tập trau dồi để trau dồi kỹ năng của mình. Con người, cần phải trau dồi kỹ năng của mình. Đặc biệt trong xã hội hiện đại thì việc trau dồi kỹ năng sống rất quan trọng. Nó sẽ giúp chúng ta đạt được thành công trong cuộc sống và công việc.

Khi làm bất cứ một ngành nghề gì chúng ta cần trau dồi cho mình một kỹ năng nhất định. Bởi lẽ kỹ năng sống sẽ giúp chúng ta thiên biến vạn hóa để phục vụ cho chúng ta. Đôi khi kỹ năng sống quyết định rất nhiều đến sự thành công nên chúng ta cần chú ý đến việc học kỹ năng sống.

Việc học kỹ năng sống không phải ở đâu cao siêu mà chính là học từ trong cuộc sống, các mối quan hệ, va chạm hằng ngày, dần dần sẽ hình thành được tư duy giải quyết công việc cho chúng ta. Những va vấp trong cuộc sống, sẽ giúp cho kỹ năng sống của chúng ta thêm dạn dày hơn, càng ngày càng phong phú hơn. Nếu như con người mãi mãi được bao bọc mà không có sự va chạm thì chúng ta không thể trưởng thành được và cũng không thể có được kỹ năng. Chính vì thế hãy luôn luôn tạo sự năng động cho bản thân, tham gia vào tất cả các hoạt động không sợ khó không sợ khổ nó sẽ rất hữu ích cho cuộc sống sau này.

Nghị luận về kỹ năng sống – Mẫu 4

Quá trình tồn tại và thống trị thế giới đã khẳng định những năng lực ưu việt của con người so với những loài vật khác. Trong đời sống xã hội, con người muốn thành công, ngoài nhiệm vụ tích lũy tri thức vững chắc còn cần phải rèn luyện cho mình thật nhiều kỹ năng sống mạnh mẽ. Thế nhưng, khi xã hội càng phát triển, việc giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cho giới trẻ đã không được quan tâm, khiến nhiều bạn trẻ thiếu kỹ năng sống cần thiết. Tình trạng đó gây ra những hậu quả nghiêm trọng, là hồi chuông cảnh tỉnh toàn xã hội trước tương lai của tuổi trẻ.

Kỹ năng sống là tập hợp các hành vi tích cực và khả năng thích nghi cho phép mỗi cá nhân đối phó hiệu quả với các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày. Nói cách khác, đó là tập hợp các kỹ năng mà con người tiếp thu qua giáo dục hoặc trải nghiệm trực tiếp được dùng để xử lý các vấn đề và câu hỏi thường gặp trong đời sống con người.

Một số kỹ năng sống quan trọng đảm bảo cho sự sinh tồn, phát triển và thành công của con người cần có như: Đưa ra quyết định; Giải quyết vấn đề; Tư duy sáng tạo; Tư duy phản biện/sáng suốt; Giao tiếp hiệu quả; Mối quan hệ tương tác giữa các cá nhân; Tự ý thức về bản thân.Chánh niệm; Quyết đoán; Đồng cảm; Tha thứ; Đối phó với căng thẳng, tổn thương và mất mát; Khả năng phục hồi tâm lý sau chấn thương.

Thành công chỉ thực sự đến với những người biết thích nghi để làm chủ hoàn cảnh và có khả năng chinh phục hoàn cảnh. Vì vậy, kỹ năng sống sẽ là hành trang không thể thiếu đối với các bạn trẻ ngày nay. Biết sống, làm việc và thành đạt là ước mơ không quá xa vời; là khát khao chính đáng của những ai biết trang bị cho mình những kỹ năng sống cần thiết và hữu ích.

Có kỹ năng sống tốt giúp thúc đẩy thay đổi cách nhìn nhận bản thân và thế giới, tạo dựng niềm tin, lòng tự trọng, thái độ tích cực và động lực cho bản thân, tự mình quyết định số phận của mình. Kỹ năng sống giúp giải phóng và vận dụng năng lực tiềm tàng trong mỗi con người để hoàn thiện bản thân, tránh suy nghĩ theo lối mòn và hành động theo thói quen trên hành trình biến ước mơ thành hiện thực.

Kỹ năng sống giúp con người sống an toàn, làm được nhiều điều hữu ích, đóng góp sức mình xây dựng và phát triển xã hội. Có kỹ năng sống, con người sẽ bớt đi nỗi sợ hãi, thêm niềm tin, sống hạnh phúc và hài lòng về cuộc sống của mình. Chỉ khi con người cảm thấy hạnh phúc mới cống hiến cho xã hội được nhiều hơn.

Khối lượng kiến thức của chúng ta trở nên lỗi thời nhanh chóng trong thời đại mới. Trong môi trường không ngừng biến động như thế, con người luôn đối diện với áp lực cuộc sống từ những yêu cầu ngày càng đa dạng, ngày càng cao trong quan hệ xã hội, trong công việc và cả trong quan hệ gia đình. Quá trình hội nhập với thế giới đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ngoài kiến thức chuyên môn, yêu cầu về các kỹ năng sống ngày càng trở nên quan trọng. Thiếu kỹ năng sống con người dễ hành động tiêu cực, nông nổi dẫn đến thất bại.

Cuộc đời là một hành trình mà tri thức là một bệ phóng, còn kỹ năng sống chính là động lực đẩy con người vươn lên tầm cao thành đạt. Không có thành công nào tự tìm đến với chúng ta, không có hạnh phúc nào tự nó nảy nở, tất cả đều do chúng ta tạo lấy. Thực tế cho thấy những người thành đạt và có cuộc sống hạnh phúc trong cuộc sống thường hội tụ ở bản thân rất nhiều kỹ năng sống.

Gia đình là môi trường nền tảng tốt nhất để dạy cho giới trẻ các kỹ năng sống cần thiết. Giáo dục kỹ năng sống thường được dạy qua quá trình giáo dục con cái, hoặc trực tiếp với mục đích giảng dạy một kỹ năng cụ thể trong nhà trường. Bản thân cha mẹ có thể được coi là một tập hợp các kỹ năng sống mà con cái sẽ tiếp thu một cách tự nhiên hoặc được dạy.

Việc giáo dục một người có kỹ năng để ứng phó với việc mang thai và nuôi dạy con cái cũng có thể trùng khớp với việc phát triển kỹ năng sống bổ sung cho đứa trẻ và giúp cha mẹ hướng dẫn trẻ ở tuổi trưởng thành.

Nhà trường là cơ sở quan trọng nhất hình thành và bồi dưỡng kỹ năng sống cho học sinh. Rèn luyện kỹ năng sống là một quá trình lâu dài, bền bỉ. Do đó, không phải vì kỹ năng sống có tầm quan trọng rất lớn mà cố đưa vào chương trình giảng dạy cho các bạn trẻ nhiều chuyên đề mang tính lý thuyết. Điều cần thiết là làm cho mọi người ý thức được tầm quan trọng của kỹ năng sống và lồng nó vào các môn học. Những người đã đi làm thì cần bổ sung một vài chuyên đề cần thiết mà bản thân còn yếu để nâng cao năng lực và hiệu quả công việc.

Giáo dục cần trang bị cho người học những kỹ năng thiết yếu như ý thức về bản thân, làm chủ bản thân, đồng cảm, tôn trọng người khác, biết cách hợp tác và giải quyết hợp lý các mâu thuẫn, xung đột.

Xã hội là môi trường tốt nhất để các bạn trẻ thực hành, trải nghiệm kỹ năng sống. Bởi thế, cộng đồng cũng cần phải chung tay góp sức rèn luyện kỹ năng sống cho giới trẻ, tạo những điều kiện thuận lợi để các bạn hoàn thiện bản thân mình. Cộng đồng đình trệ khi không có thôi thúc của cá nhân. Thôi thúc của cá nhân sẽ mau chóng tàn lụi nếu không có sự cảm thông của cộng đồng.

Bản thân các bạn trẻ phải không ngừng nỗ lực bồi dưỡng, hình thành và rèn luyện kỹ năng sống của mình. không phải là một vài kỹ năng mà là một hệ thống các kỹ năng phù hợp với thế giới xung quanh, giúp bạn sống an toàn, học tập tiến bộ, làm việc thành công, cảm nhận được hạnh phúc. Các bạn trẻ phải luôn nỗ lực để cân bằng các giá trị của bản thân. Đừng để ý chí mình gầm lên trong khi năng lực của mình chỉ đủ sức thì thầm.

Mọi công việc thành đạt đều nhờ sự kiên trì và lòng say mê. Người bi quan luôn tìm thấy những khó khăn trong mọi cơ hội. Người lạc quan luôn nhìn được những cơ hội trong từng khó khăn. Sự thay đổi của cuộc sống là điều không thể tránh khỏi. Bởi thế, việc của chúng ta đơn giản là lựa chọn cách để vượt qua mà thôi.

Thật đáng buồn khi ngày nay còn có rất nhiều bạn trẻ thiếu kỹ năng sống, đặc biệt là ở các đô thị lớn. Dù đã bước vào tuổi trưởng thành, thế nhưng nhiều người vẫn sống dựa dẫm vào người khác, không biết xử lí tình huống để xảy ra những hậu quả tai hại.

Rèn luyện kỹ năng sống là nhiệm vụ sống còn của giới trẻ ngày nay. Trong khi, ngày càng có nhiều người trở nên lười biếng, dựa dẫm, ỷ lại thì việc rèn luyện kỹ năng sống cho thanh niên và học sinh là thực sự rất cần thiết. Là học sinh, hãy rèn luyện kỹ năng sống ngay từ bây giờ để học tập tiến bộ, mai này đem sức mình xây dựng quê hương, đất nước.

Nghị luận về kỹ năng sống – Mẫu 5

Kỹ năng sống chính là thước đo, là động lực để mỗi người chúng ta có thể tự hoàn thiện bản thân mình từng ngày. Kỹ năng sống có thể thay đổi nhưng là thay đổi theo chiều hướng tích cực. Khi xã hội ngày càng phát triển, việc trau dồi và rèn luyện những kỹ năng sống cơ bản nhất sẽ giúp cho mỗi người thấy tự tin hòa nhập với cộng đồng hơn. Trong đó rèn luyện sự thích nghi là một trong những kỹ năng quan trọng, làm đòn bẩy để cho chúng ta ngày càng phát triển hơn.

Kỹ năng sống thích nghi là một kĩ năng giúp cho mỗi người có thể sống tự tin, sống lành mạnh trong bất cứ một môi trường nào đó. Đặc biệt đối với thế hệ trẻ thì sự thích nghi càng trở nên cần thiết và cấp bách phải rèn luyện thường xuyên.

Sự thích nghi thể hiện ở việc thích nghi với môi trường sống, với những con người mới, công việc mới, suy nghĩ mới. Bởi chúng ta không bao giờ sống chỉ suy nhất trong một môi trường, tiếp xúc với những người thân quen. Ai cũng có lúc phải trưởng thành, phải tự lập, phải làm việc; lúc đó sẽ phải thay đổi môi trường sống, phải tiếp xúc với nhiều người. Kỹ năng thích nghi trong thời gian này là điều cần thiết cần phải phát huy hơn nữa. Bởi nếu không thích nghi thì chúng ta không thể hòa nhập cũng như bắt kịp với xu thế của xã hội.

Đối với thế hệ trẻ, việc thích nghi không những giúp cho họ có thể mở rộng thêm nhiều mối quan hệ, cọ xát tiếp xúc với nhiều người mà còn nâng cao sự tự tin hơn nữa. Tự tin là điều mà xã hội cần ở những người trẻ. Vì tự tin cũng chính là một biểu hiện của sự thích nghi trước bất kỳ môi trường sống nào.

Tôi từng quen biết một cô bé chuẩn bị bước sang lớp 10. Gia đình em chuyển vào miền nam sinh sống, em phải làm quen với môi trường mới, cuộc sống mới, trường học và các bạn bè đều mới. Tính em vốn nhút nhát, ngại giao tiếp, ngại va chạm. Nhưng được sự động viên, khích lệ của mọi người em đã dần dần thích nghi với môi trường mới, càng ngày em càng hòa đồng và trở thành một người năng động tham gia rất nhiều hoạt động. Sự thích nghi đã khiến cô bé nhút nhát trở nên tự tin và hài lòng với bản thân mình hơn.

Môi trường đại học là nơi mà tất cả các bạn sinh viên khi đặt chân vào đây đều phải học kỹ năng thích nghi. Bởi đây là môi trường hoàn toàn khác so với trước đấy. Nếu không thích nghi thì sinh viên sẽ mãi dậm chân tại chỗ, không có ý chí, không có lập trường, sống không hòa đồng. Chúng ta có thể giúp đỡ nhau để làm tốt kỹ năng thích nghi này để hoàn thiện bản thân mình từng ngày.

Tuy nhiên cần hiểu kỹ năng sống thích nghi theo nghĩa tích cực, cần chọn môi trường, con người phù hợp, tốt cho bản thân mình thì hòa đồng. Không nên thích nghi với những thứ không lành mạnh, xấu xa có thể trực tiếp khiến cho bản thân bạn rơi vào sai lầm. Bởi vậy kỹ năng thích nghi còn là phải biết cách nên và không nên thích nghi với môi trường nào. Nắm rõ được kỹ năng này thì chúng ta không ai sợ lạc lõng và đi vào con đường sai lầm.

Sự thích nghi sẽ là cái bàn đạp tạo nên sự thành công của mỗi người. Vì khi thích nghi chúng ta sẽ nhanh chóng tiếp thu được kiến thức và rất nhiều kỹ năng khác từ nhiều người, nhiều môi trường.

Sự cần thiết của kỹ năng thích nghi trong thời đại hiện nay lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Nó sẽ làm nên sự tự tin, ham học hỏi, ham tìm hiểu, có thể thích nghi với bất kỳ hoàn nào khó khăn nào đi chăng nữa. Thích nghi sẽ giúp chúng ta có thể vượt qua chính bản thân mình.

Kỹ năng sống thích nghi không dành riêng cho bất kỳ ai, nhưng đối với thế hệ trẻ, tương lai của đất nước thì nó càng cần được xem trọng và rèn luyện thường xuyên hơn. Như thế chúng ta mới có thể tự tin, hòa đồng và dám làm, dám nghĩ đến những điều tưởng chừng rất khó.

Nghị luận về kỹ năng sống – Mẫu 6

Cuộc sống con người ngày càng phát triển, bởi vậy đòi hỏi với mỗi cá nhân ngày càng cao hơn. Để tồn tại trong thế giới hiện nay mỗi người phải hình thành cho mình những kỹ năng sống cơ bản. Những kỹ năng sống này sẽ giúp bạn có thể vượt qua mọi khó khăn, thử thách để vươn đến thành công. Bởi vậy, “việc rèn luyện kĩ năng sống cũng quan trọng như tiếp thu kiến thức”.

Trước hết ta cần hiểu thế nào là kĩ năng sống? Hiểu một cách đơn giản nhất kĩ năng sống là những năng lực cần thiết con người cần có để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống một cách có hiệu quả và mang lại những kết quả tốt đẹp. Kỹ năng sống còn là khả năng mỗi cá nhân duy trì một trạng thái tinh thần khỏe mạnh, minh mẫn, có cách ứng xử phù hợp với mọi người xung quanh.

Bất cứ loài vật nào cũng phải hình thành kĩ năng sống cho riêng mình. Con thỏ rèn cho mình kĩ năng chạy nhanh để trốn thoát sự truy đuổi của kẻ thù; con hổ phải rèn cho mình những kĩ năng cơ bản để có thể bắt mồi; nếu chúng không có những kỹ năng ấy tất yếu sẽ bị triệt tiêu. Con người cũng không nằm ngoài vòng sinh tồn ấy. Nếu không có những kĩ năng sống cơ bản con người sẽ bị xã hội loại trừ. Nếu mỗi người chỉ biết học tập, tiếp thu tri thức mà quên mất việc rèn luyện kĩ năng sống cơ bản thì dần dần sẽ bị tụt lùi và bị xã hội đào thải.

Như chúng ta đã biết giữa rèn luyện kĩ năng sống và tích lũy kiến thức có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tích lũy kiến thức là quá trình chúng ta thu thập kiến thức trong nhà trường, đây là nền tảng cơ bản để rèn luyện kĩ năng sống; kĩ năng sống là quá trình đưa những tri thức đã tích lũy được vào thực tiễn đời sống. Nếu chúng ta chỉ chìm đắm mãi trong sách vở, thì những kiến thức kia cũng mãi chỉ nằm trên giấy, phải đưa chúng vào thực hành thì chúng mới trở nên có ích. Bởi vậy rèn luyện kĩ năng sống sau quá trình học lại càng cần thiết và quan trọng hơn nữa.

Tích lũy kiến thức là bước cơ bản đầu tiên của mỗi cá nhân giúp tăng vốn hiểu biết, là cơ sở để khám phá thế giới. Nhưng tích lũy kiến thức không thôi là chưa đủ để vững vàng bước vào tương lai, mà phải có cả kinh nghiệm, sự trải nghiệm thực tế cuộc sống. Xã hội hiện đại không ngừng phát triển và liên tục biến đổi, tạo nên những tình huống mới mà con người phải tìm cách vượt qua, chinh phục chúng. Nếu chỉ có tri thức sách vở không thôi, chúng ta không thể giải quyết muôn mặt vấn đề đời sống được. Hơn nữa tri thức về một vấn đề chỉ có một nhưng tình huống trong cuộc sống lại muôn hình vạn trạng khác nhau. Bởi vậy không thể áp dụng một tri thức cho tất cả các tình huống đó mà phải có kĩ năng giải quyết các vấn đề khác nhau. Như vậy, trong xã hội hiện đại con người càng cần hơn nữa những kĩ năng sống cơ bản để thích nghi và nâng cao chất lượng cuộc sống của chính mình.

Rèn luyện kĩ năng sống có vai trò hết sức quan trọng đối với mọi người. Trong cuộc sống hiện đại, với mức độ công nghiệp hóa hiện đại hóa diễn ra ngày càng nhanh chóng thì việc hình thành kĩ năng sống lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Cuộc sống hiện đại đòi hỏi con người phải không ngừng tự hoàn thiện bản thân, nâng cao tầm giá trị của chính mình. Kĩ năng sống giúp con người có thể xử lí linh hoạt các tình huống bất ngờ xảy ra. Không chỉ vậy khi có kĩ năng sống bạn sẽ cảm thấy bình tĩnh, tự tin, chủ động hơn trong cuộc việc. Và những người có kĩ năng sống thường dễ đạt được thành công hơn. Ngược lại những kẻ không hình thành được kĩ năng sống cho bản thân thường rụt rè, nhút nhát. Bất cứ vấn đề gì cũng e sợ, không giải quyết được những vấn đề của cuộc sống. Và những người này tỉ lệ thành công thường rất hiếm hoi.

Để rèn luyện thành thục kĩ năng sống chúng ta cần phải một số điều cơ bản sau. Trước hết cần tích lũy cho mình vốn tri thức phong phú, dồi dào. Luôn quan sát những gì xảy ra xung quanh, tự rút ra cho bản thân những bài học, những kinh nghiệm. Không ngừng thử nghiệm những cái mới, không sợ khó khăn gian khổ, bởi kĩ năng sống của mỗi người được hình thành từ chính quá trình trải nghiệm. Càng trải nghiệm nhiều con người càng có nhiều kĩ năng sống. Sống thân thiện, hòa đồng với mọi người xung quanh. Trong nhà trường cần có những khóa học trải nghiệm giúp học sinh hình thành những kĩ năng sinh tồn ngay từ khi còn nhỏ.

Vậy có những kĩ năng sống cơ bản nào chúng ta cần hình thành: kĩ năng sinh tồn, kĩ năng tự giải quyết vẫn đề, kỹ năng quản lí thời gian, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng giao tiếp, ứng xử với mọi người xung quanh, kĩ năng cảm thông, bao dung. Đó là một trong những kĩ năng cơ bản chúng ta cần có để sinh tồn trong thế giới hiện đại.

Bên cạnh những học sinh có ý thức tôi luyện cả kĩ năng sống lẫn kiến thức sách vở, thì có những bộ phận học sinh lại chỉ chú trọng đến việc tích lũy kiến thức mà quên đi rèn luyện những kĩ năng sống. Điều đó khiến các bạn sẽ gặp khó khăn khi bước vào cuộc sống, bỡ ngỡ và bỏ lỡ nhiều cơ hội để vươn đến thành công.

Rèn luyện kĩ năng sống và tích lũy kiến thức là hai quá trình cần thực hiện song song với nhau. Thực hiện được cả hai yếu tố này sẽ giúp chúng ta dễ dàng vượt qua được những trở ngại trong cuộc sống. Bản thân mỗi người cần ý thức đầy đủ về vấn đề này để có cách phân phối hài hòa giữa tích lũy kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống.

Nghị luận về kỹ năng sống – Mẫu 7

Một người muốn đạt được thành công thì phải tự hoàn thiện bản thân mình về tài năng và phẩm chất đạo đức, và một trong những nhân tố không thể thiếu quyết định thành công của con người đó chính là kỹ năng sống.

Vậy kỹ năng sống là gì? Tại sao mỗi người chúng ta lại cần kỹ năng sống? Để trả lời cho hai câu hỏi trên trước hết chúng ta cùng đến với một tình huống thực tế. Giả sử bạn đang đi tham quan học tập cùng với các bạn của mình nhưng rồi vì vấn đề nào đó mà bạn bị tách khỏi đoàn và đi lạc vào một khu rừng, khi ấy bạn sẽ làm gì? Nếu bạn là người có kĩ năng sống thì chắc hẳn bạn sẽ biết tiếp theo mình phải làm gì nhưng nếu bạn lại hoàn toàn non nớt về những tình huống không ngờ như thế thì sao, phải chăng bạn sẽ bất lực bởi quá lo lắng và sợ hãi, bạn sợ đủ thứ trong rừng vì thế không thể nghĩ ra được biện pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề của mình. Đến đây chắc các bạn cũng đã hình dung ra phần nào về kỹ năng sống, đúng vậy kĩ năng sống được hiểu theo đúng cái tên của nó. Là kỹ năng giải quyết những vấn đề bất ngờ không mong muốn xảy đến với mình và mọi người, có kỹ năng sống sẽ giúp chúng ta tồn tại và sống sót trong những tình huống khó khăn nhất.

Cuộc sống luôn ẩn chứa nhiều hiểm họa, thách thức và không ai trong chúng ta có thể đoán trước được chuyện gì sẽ xảy ra, vậy nên việc học tập kỹ năng sống là rất quan trọng. Hiện nay có rất nhiều trung tâm hay tổ chức chuyên về đào tạo kỹ năng sống cho mọi người đặc biệt là lứa tuổi trẻ em còn non nớt trong những tình huống có thể xảy ra trong cuộc sống. Thế nhưng không phải gia đình nào cũng có điều kiện để chi trả một số tiền lớn giúp con em mình tiếp thu kiến thức bảo vệ và giữ an toàn cho bản thân mình trong những lúc khó khăn. Vấn đề này chúng ta có thể dễ dàng hiểu bởi bạn có thể thấy được sự khác biệt giữa những đứa trẻ nông thôn và thành phố. Đa số em nhỏ thành phố có kĩ năng sống tốt hơn những em nhỏ ở nông thôn, tưởng rằng ở nông thôn nhiều sông suối thì đương nhiên trẻ em ở đó sẽ biết bơi thế nhưng không phải, vì hiện nay vấn đề ô nhiễm môi trường trở nên nghiêm trọng dẫn đến trẻ em nông thôn không có môi trường cũng như điều kiện để học bơi, còn đối với trẻ em thành phố thì chúng có thể bơi được dễ dàng vì từ nhỏ cha mẹ đã cho chúng đến các bể bơi để học bơi. Mấu chốt chính là ở đó. Vậy nhưng, không phải lúc nào trẻ em thành phố cũng có kỹ năng hơn trẻ em nông thôn, có thể vì thiếu thốn nhiều thứ mà những đứa trẻ nông thôn được học tập kỹ năng sinh tồn để khắc phục hoàn cảnh, chúng có thể biết nhiều hơn những đứa trẻ thành phố.

Kỹ năng sống là một trong những điều kiện bắt buộc phải có để con người có thể tồn tại, bất kể là người giàu hay người nghèo. Bạn đừng tưởng rằng người giàu có điều kiện thì không cần phải học kỹ năng sống vì họ sẽ không gặp phải những tình huống éo le. Sự thật thì những người có điều kiện càng phải học, đã bao giờ bạn nghe đến câu chuyện cướp ngân hàng hay những câu chuyện ghê rợn của những người đang trong chuyến du lịch của mình. Giả sử họ gặp một băng cướp và tình trạng rất nguy kịch, nếu lúc đó họ không có kỹ năng sống thì liệu họ có thể đủ bình tĩnh để khôn khéo đưa ra biện pháp khắc phục. Tình huống khó khăn hơn nữa là khi du thuyền của những người giàu bị mắc kẹt ở một hòn đảo hoang, lúc này tiền nhiều cũng không thể giúp gì cho họ, họ chẳng thể lấy thẻ tín dụng ra để quẹt rồi lấy tiền đó chăm lo cho cuộc sống của mình. Lạc ở hòn đảo hoang đầy nguy hiểm như thế thì nếu không có kỹ năng sống liệu họ thực sự có thể tồn tại?

Advertisement

Kỹ năng sống không chỉ là khả năng xử lí tình huống và giữ mạng sống khi rơi vào tình huống khó khăn mà còn bao gồm cả khả năng quản lý tốt tài chính và thời gian của mình. Học kỹ năng sống cũng đồng nghĩa là bạn học cách tự lập, tự quản lý thời gian và các vấn đề cá nhân của mình. Bạn trở nên hoàn thiện hơn về con người và có thể tự xoay sở trong mọi tình huống, đó chính là cái đích của việc học kỹ năng sống.

Không chỉ thế, kỹ năng sống còn là việc mình điều khiển được cảm xúc bản thân để hòa thuận với mọi người. Điều này hoàn toàn quan trọng đặc biệt là với thế hệ trẻ ngày nay, bạn cũng có thấy trên báo đài nổi lên những vụ gây gổ của học sinh với nhau, đó tuy chỉ là những vấn đề nhỏ thế nhưng các em lại tự khiến câu chuyện trở nên nghiêm trọng và kéo bè đến giải quyết bằng vũ lực. Trong cuộc sống không phải lúc nào mọi chuyện cũng như mong muốn, có thể có nhiều tình tiết khác nhau dẫn đến hiểu lầm và cách giải quyết là phải lắng nghe nhau để từ từ xua đi hiểu lầm không đáng có chứ không phải dùng cái hung hăng thiếu suy nghĩ của tuổi trẻ để giải quyết, những người nông cạn với suy nghĩ nông nổi sẽ không thể làm nên chuyện trong cuộc đời của mình.

Nếu bạn chưa tự tin về khả năng xử lý tình huống của mình thì cũng đừng sợ phải tham gia vào những điều mới mẻ bởi chúng ta cũng có thể học được từ những việc mà mình chưa thử, vấp ngã và sai lầm sẽ giúp chúng ta ghi nhớ sâu hơn những bài học cuộc sống, có được những kinh nghiệm quý báu góp thêm hành trang cho kĩ năng sống của mình.

Nghị luận xã hội về kỹ năng sống – Mẫu 8

Trong những năm gần đây vấn đề kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống đang là vấn đề “nóng” được giới nghiên cứu và xã hội quan tâm, nhất là trước tình trạng báo động về nhân cách, đạo đức, lối sống của một bộ phận giới trẻ đương đại. Thế nhưng tình hình chung ở các trường phổ thông hiện nay là phần lớn thời gian dạy học đều dành hết cho các môn học chính khóa còn kĩ năng sống ít được quan tâm, hoặc là lồng ghép với các hoạt động khác như ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp. Giáo dục cần phải hướng đến một chương trình toàn diện, dạy học là dạy cả tri thức, kỹ năng và thái độ sống để học sinh có thể hội nhập, thích nghi với cuộc sống tương lai. Chính vì vậy chúng ta phải suy nghĩ đến ý kiến sau: “Việc rèn luyện kỹ năng sống cũng cần thiết như việc tích lũy kiến thức”.

Kĩ năng sống là khả năng thích nghi, ứng phó và giải quyết các tình huống thực tiễn. Kiến thức là những hiểu biết có được từ sách vở và đời sống thông qua quá trình học tập và trải nghiệm. Ý kiến trên đã khẳng định việc rèn luyện kĩ năng sống và tích lũy kiến thức đều cần thiết.

Điều đầu tiên chúng ta cần khẳng định việc tích lũy kiến thức giúp con người tăng vốn hiểu biết để khám phá thế giới, khẳng định bản thân. Thế nhưng, chỉ tích lũy kiến thức là không đủ để chuẩn bị cho tương lai. Nhà tâm lí học Ba Lan Krytyna Skarzyska đã khẳng định: “Sự thành công của mỗi người chỉ có 15% là dựa vào kĩ thuật chuyên ngành, còn 85% là dựa vào những quan hệ giao tiếp và tài năng xử thế của người đó”. Xã hội hiện đại có những thay đổi về kinh tế, văn hóa, xã hội và lối sống, một mặt sự phát triển của xã hội hiện đại làm cho chất lượng cuộc sống của con người ngày càng tốt hơn, những mặt khác làm nảy sinh những vấn đề mới mà trước đây con người chưa gặp, chưa trải nghiệm, chưa biết cách đương đầu, đồng thời mức độ phức tạp, khó khăn của những vấn đề cũ đã gặp trước đây cũng có xu hướng tăng lên. Như vậy trong xã hội hiện đại con người càng cần có kĩ năng sống để thích nghi tốt hơn và nâng cao chất lượng cuộc sống, thích ứng và hòa nhập với môi trường một cách tốt nhất. Tại Mĩ, từ những năm 1916, người ta đã nhận ra rằng tri thức nhân loại là rất lớn nhưng để thực hành thành thạo và áp dụng, ứng dụng vào cuộc sống thì thường không như mong muốn. Cho nên mỗi người dân lao động tại Mĩ phải đảm bảo thực hành và phải được các tổ chức công nhận là đã qua 13 kĩ năng bắt buộc. Kĩ năng sống góp phần thúc đẩy cá nhân và xã hội, ngăn ngừa được các vấn đề tiêu cực nảy sinh trong xã hội, bảo vệ sức khỏe và quyền con người. Các cá nhân thiếu kĩ năng sống là một nguyên nhân nảy sinh nhiều vấn đề lệch chuẩn. Người có kĩ năng sống biết cách bảo vệ mình trước những yếu tố bất lợi của cuộc sống, biết xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp, nhân văn và từ đó góp phần làm giảm tệ nạn xã hội, làm cho xã hội phát triển, văn minh.

Rèn luyện kĩ năng sống và tích lũy kiến thức có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại: tích lũy kiến thức làm nền tảng cho việc hình thành, rèn luyện kĩ năng sống; rèn luyện kĩ năng sống là điều kiện để vận dụng hiệu quả kiến thức vào thực tế. Kĩ năng sống như một phản xạ, xuất phát từ chính vốn sống, tính cách của mỗi người. Kĩ năng sống không tự nhiên mà có. Đó là một quá trình học tập, tích lũy và rèn luyện của chính bản thân mỗi người. Mỗi người cũng có thể tự trang bị kĩ năng sống bằng cách quan sát, học hỏi những điều hay, điều tốt từ những người xung quanh mình, tự trải nghiệm cuộc sống với những hoạt động như đi du lịch, tham gia các chương trình, hoạt động đoàn thể, cộng đồng. Do vậy chúng ta cần phê phán những lối suy nghĩ một chiều, chỉ chú trọng vào những kiến thức sách vở mà quên đi việc rèn luyện những kĩ năng sống, từ đó khi đối mặt với khó khăn sẽ không có kinh nghiệm giải quyết những vấn đề thực tiễn. Hơn thế, giáo dục kĩ năng sống cần cả một quá trình giáo dục từ gia đình đến nhà trường và cả xã hội. Trong đó có thể nói giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo là một trong nhiều con đường hình thành kĩ năng sống ở mỗi người, nhưng giáo dục kĩ năng sống theo con đường giáo dục nhà trường sẽ đảm bảo vai trò chủ đạo của giáo dục và có thể đem lại hiệu quả cao hơn nhờ tính khoa học và tính chuyên nghiệp của nó.

Lewis L. Dunnington từng nói: “Ý nghĩa của cuộc sống không phải ở chỗ nó đem đến cho ta điều gì mà ở chỗ ta có thái độ đối với nó ra sao, không phải ở chỗ điều gì xảy ra với ta, mà ở chỗ ta phản ứng với những điều đó như thế nào”. Nhìn lại ý kiến trên, chúng ta có thể khẳng định việc cân bằng giữa kiến thức và kĩ năng sống giúp cuộc sống con người không chỉ thuận lợi hơn mà còn có thể tạo ra nhiều giá trị thực sự trong cuộc sống. Chính vì vậy mà việc nhận thức được tầm quan trọng và biết kết hợp hài hòa, linh hoạt giữa rèn kĩ năng sống với tích lũy kiến thức sẽ giúp mỗi người hoàn thiện bản thân và giúp cuộc sống chúng ta tốt đẹp hơn.

…………

Văn Mẫu Lớp 12: Đoạn Văn Nghị Luận Về Tình Phụ Tử (Dàn Ý + 12 Mẫu) Viết Đoạn Văn Về Tình Phụ Tử

Viết đoạn văn nghị luận về tình phụ tử

Dàn ý viết đoạn văn về tình phụ tử

Viết đoạn văn về tình phụ tử 

Dàn ý viết đoạn văn về tình phụ tử

1. Mở đoạn

Giới thiệu vấn đề vấn đề cần nghị luận: tình phụ tử.

2. Thân đoạn

a. Giải thích

Tình phụ tử: là tình cảm, sự quan tâm, chăm sóc của người cha đối với con và sự đền ơn đáp nghĩa, sự yêu quý, kính trọng của con cái dành cho người cha của mình.

b. Phân tích

Cha là những người sinh thành, nuôi dưỡng giáo dục, bao bọc chúng ta nên việc hiếu nghĩa là việc chúng ta phải làm để báo đáp công ơn đó.

Mỗi người con khi yêu thương cha sẽ tạo nên những đức tính tốt đẹp khác đồng thời tạo giúp cho gia đình luôn tràn ngập tình yêu thương.

Việc đối xử, thể hiện tình cảm với cha mình thể hiện phẩm chất, nhân cách của người đó.

c. Bàn luận

Tình phụ tử được biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau:

Người cha: yêu thương, quan tâm chăm sóc đến người con của mình, ân cần dạy bảo để con thành người, nghiêm khắc trước những lỗi sai của con mình. Tình cảm cha dành cho con không được thể hiện rõ như tình mẫu tử nhưng nó luôn thường trực.

Người con: yêu thương, tôn trọng, hiếu thảo với cha mình; nghe theo những lời khuyên bảo của cha; có những hành động đền ơn đáp nghĩa với cha mình.

d. Dẫn chứng

Học sinh tự lấy dẫn chứng minh họa cho bài làm của mình.

3. Kết bài

Khẳng định lại tầm quan trọng của tình phụ tử đồng thời rút ra bài học cho bản thân.

Viết đoạn văn về tình phụ tử Đoạn văn mẫu 1

Chẳng có một thước đo giá trị nào có thể đo được tình phụ tử – những tình cảm mà người cha dành cho người con của mình. Đó là thứ tình cảm mà chẳng ngôn ngữ nào có thể diễn tả được. Tình phụ tử, là tình cha con, thứ tình cảm thiêng liêng, quý giá. Ai được sinh ra trên đời cũng có một người cha. Người mà luôn thầm lặng dõi theo chúng ta trên mọi nẻo đường. Từ khi còn thơ ấu, cha đã luôn là người sát cánh bên ta. Những hình ảnh về cha lúc nhỏ, đó là những hình ảnh về một người nghiêm khắc, khó tính. Cha tạo cho chúng ta cảm giác lạnh lùng, khó gần. Cha trong mắt chúng ta, là người chỉ biết đến công việc, chỉ biết kiếm tiền. Đôi khi chúng ta thấy cha thật vô tâm, chẳng quan tâm gì đến chúng ta như mẹ cả. Mẹ thì luôn quan tâm tới chúng ta, lắng nghe chúng ta, còn cha, thật thầm lặng. Nhưng, cha thầm lặng, bởi cha mang trong mình nhiều nỗi ưu tư, trăn trở về cuộc sống. Làm sao có thể chăm sóc, nuôi dưỡng chúng ta cho thật tốt. Gánh nặng của người cha là rất lớn, người cha, người đàn ông trụ cột trong gia đình. Cho nên, tất cả những công việc mà cha phải gánh vác là rất nhiều, khiến cho chúng ta luôn thấy cha thật nghiêm khắc, hay khó tính, nhưng thực ra thì, cha lại rất thương yêu chúng ta. Sự yêu thương của cha được thể hiện qua hành động thực tế: những bữa cơm ngon, tiền tiêu vặt, những món quà cha tặng, hay là tiền để cho chúng ta đi học, đi chơi. Cha lo cho chúng ta rất nhiều thứ từ khi chúng ta còn bé. Bằng sự vất vả, khổ cực làm việc của cha. Chúng ta mới có những thứ chúng ta cần thiết, tiền để nuôi sống chúng ta. Đừng trách cha vì cha lạnh nhạt, chẳng quan tâm nói chuyện với chúng ta nhiều như mẹ. Bởi bạn biết đấy, cha là một người tuyệt vời. Tuyệt vời vì cha hi sinh cả cuộc đời mình để nuôi nấng chúng ta, chẳng một lời than phiền.

Đoạn văn mẫu 2

Tình phụ tử là một thứ tình cảm rất thiêng liêng và đáng có. Chúng ta phải biết trân trọng nó. Trước hết chúng ta phải hiểu tình phụ tử là gì? Tình phụ tử là tình cảm giữa cha con, là 1 tình cảm sâu sắc không tình cảm nào sánh bằng. Trong cuộc đời mỗi người, ta hạnh phúc và ấm êm hơn nhờ vào tình phụ tử nồng ấm. Cha là người dành cho ta trọn vẹn tình yêu thương và luôn chăm sóc ta. Suốt năm tháng qua, sau lưng ta luôn là bờ vai của cha bảo vệ, chăm sóc. Cha chúng ta có thể chịu vất vả, khó nhọc nhưng không bao giờ để ta chịu thiệt thòi. Đặc biệt, trong mọi giờ phút dù ta thất bại hay hạnh phúc thì sau lưng ta vẫn có sự bao bọc, chở che. Những việc làm cao đẹp đó, mỗi người con cần có trách nhiệm yêu thương mẹ, tích cực trau dồi kiến thức để trở thành một người hiền tài, luôn khắc ghi công lao to lớn của mẹ và đền đáp công ơn ấy bằng hành động thiết thực, xứng đáng. Trong cuộc sống này, không có gì là miễn phí ngoài tình yêu của cha mẹ.Tình yêu thương của cha là thứ tình cảm thiêng liêng nhất trên đời.

Đoạn văn mẫu 3

Cuộc sống con người có rất nhiều tình cảm thiêng liêng đáng quý, đáng trân trọng nhưng có lẽ tình cảm đẹp đẽ nhất không gì sánh bằng chính là tình phụ tử. Tình phụ tử là tình cảm, sự quan tâm, chăm sóc của người cha đối với con và sự đền ơn đáp nghĩa, sự yêu quý, kính trọng của con cái dành cho người cha của mình. Cha là những người sinh thành, nuôi dưỡng giáo dục, bao bọc chúng ta nên việc hiếu nghĩa là việc chúng ta phải làm để báo đáp công ơn đó. Mỗi người con khi yêu thương cha sẽ tạo nên những đức tính tốt đẹp khác đồng thời tạo giúp cho gia đình luôn tràn ngập tình yêu thương. Việc đối xử, thể hiện tình cảm với cha mình thể hiện phẩm chất, nhân cách của người đó. Tình phụ tử của người cha được biểu hiện bằng tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc đến người con của mình, ân cần dạy bảo để con thành người, nghiêm khắc trước những lỗi sai của con mình. Tình cảm cha dành cho con không được thể hiện rõ như tình mẫu tử nhưng nó luôn thường trực. Còn người con chính là việc yêu thương, tôn trọng, hiếu thảo với cha mình; nghe theo những lời khuyên bảo của cha; có những hành động đền ơn đáp nghĩa với cha mình. Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay vẫn còn có nhiều người con tuy mang ơn nghĩa to lớn của cha nhưng lại có hành động không đúng đắn như: cãi lời cha mẹ, bất hiếu (không phụng dưỡng lúc về già, thậm chí là có hành động chửi bới, đánh đập,…) những người này đáng bị xã hội lên án, phê phán. Không gì thay thế được tình cha, không gì quý giá hơn tình cha. Là một người con, cũng ta hãy trở thành những người con có hiếu, yêu thương và báo đáp cha của mình.

Đoạn văn mẫu 4

Trong đời sống tinh thần đa dạng và phong phú của con người thì tình cha con là tình cảm máu thịt thiêng liêng, sâu đậm nhất. Công lao to lớn của người cha được nhắc đến rất nhiều trong ca dao, dân ca: Công cha như núi Thái Sơn, Con có cha như nhà có nóc, Phụ tử tình thâm…Người cha đóng vai trò trụ cột trong gia đình, là chỗ dựa đáng tin cậy cho vợ con. Mọi việc lớn như làm nhà, tậu ruộng, tậu trâu, dựng vợ gả chồng cho con cái… thường là do người cha quyết định. Trách nhiệm của người cha rất nặng nề. Con cái ngoan hay hư, chủ yếu là tùy thuộc vào sự bảo ban dạy dỗ của người cha. Bên cạnh người mẹ dịu dàng là người cha nghiêm khắc. Dẫu cách thức biểu hiện tình thương yêu có khác nhau nhưng bậc cha mẹ nào cũng mong muốn nuôi dạy con cái trưởng thành về mọi mặt, đúng như dân gian đã nói: Con hơn cha là nhà có phúc. Trong lúc mẹ hằng ngày chẳng quản vất vả nhọc nhằn, lo lắng cho các con từ bát cơm, tấm áo thì người cha, ngoài những thứ đó ra còn phải nghĩ đến việc dạy dỗ, truyền kinh nghiệm sống mà mình đã đánh đổi bằng mồ hôi nước mắt, để các con học được những bài học thiết thực khi bước vào đời. Thật hạnh phúc cho những đứa con được sống trong vòng tay yêu thương của cha mẹ!

Đoạn văn mẫu 5

Có thể khi còn nhỏ chưa hiểu chuyện ta thấy cha là người nghiêm khắc, cứng rắn chứ không dịu dàng âu yếm như mẹ nên nhiều bạn còn giận và xa lánh ba.nhưng thường khi càng lớn cách nhìn về ba của chúng ta sẽ sáng suốt hơn. Tôi đã hiểu và thương ba nhiều hơn bởi tôi biết lúc nào cha cũng nghĩ cho tôi và tất cả là vì tôi. Giờ tôi đã lớn, cha đã để tôi dần trưởng thành. Ông đã không xét nét từng việc tôi làm như trước mà nói chuyện với tôi như một người lớn. Ông đã để tôi tự quyết định và phải tự làm hết công việc của mình. Tuy nhiên ô cũng luôn đưa ra những lời khuyên,những kinh nghiệm quý báu để hướng tôi tới đường lối đúng đắn. Thật lòng tôi có cảm giác thấy chút e sợ. Trước những lựa chọn của chính mình, tôi phải tự tìm hiểu, phải suy nghĩ, phải quyết định và tìm ra cách để thực hiện nó. Đó không phải là một việc đơn giản. Thế mới biết cha mình trước kia đã phải dốc lòng dốc sức thế nào mới đưa ra được quyết định cho tôi và tôi tin những gì ông mang lại cho tôi là tốt nhất,hoàn hảo nhất. Tình cha-Một đề tài không mới nhưng chỉ cần nó xuất hiện ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào thì nó cũng sẽ đánh động hàng triệu trái tim hồi tưởng lại ý nghĩa của nó.không một cái gì có thể đánh đổi được tình cảm của cha dành cho con va: ”bạn không cần phải đắn đo phân tích xem cha chúng ta là người như thế nào vì lúc nào cha cũng thật vĩ đại.

Đoạn văn mẫu 6

Thực vậy, công lao của cha dành cho con cái không thể đong đo, cân đếm được, nếu mẹ luôn ân cần, chăm sóc ta từng li từng tí thì có lẽ cha là người âm thầm yêu thương chúng ta. Người không thể hiện sự quan tâm rõ ràng như mẹ, người thầm lặng, bảo vệ ta, cha là trụ cột gia đình, luôn nghiêm khắc với ta nhưng thực chất lại là người mềm lòng nhất, quan tâm ta nhất. Tuổi thơ của ai mà lại không một lần được “cưỡi” lên lưng cha, được cha dạy chơi thả diều, đạp xe. Tuy cha không hay nói chuyện, chia sẻ với ta nhiều, nhưng mỗi lời dạy của cha đều thấm thía, khắc sâu trong lòng con. Dù mai sau khôn lớn, chúng ta sẽ luôn nhớ mãi lời dặn của cha, nhớ mãi cảm giác ấm áp khi được cha ru ngủ, nhớ mãi cái xoa đầu dịu dàng của cha cùng lời động viên : “Con làm tốt lắm”. Tình phụ tử – một tình cảm thiêng liêng, sâu sắc theo ta suốt cuộc đời, phải khi trưởng thành, làm cha, làm mẹ, ta mới thấu hiểu được nỗi vất vả ấy, mới thấy yêu thương, quý trọng cha. Hãy trở thành một người con cho tròn chữ hiếu, trân trọng, quan tâm, lo lắng cho cha đừng trở thành những đứa con vô tâm, bất hiếu. Hãy nhớ “Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha”.

Đoạn văn mẫu 7 Đoạn văn mẫu 8

Xã hội không ngừng phát triển trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và lúc này thì các bậc phụ huynh sẽ ít quan tâm con lại vì bận làm việc để theo kịp sự phát triển đó và tình phụ tử là một tình cảm mà các bạn nhỏ hay thiếu. Vậy tình phụ tử là gì? Tình phụ tử là tình cảm giữa cha và con, tình cảm ấy bền chặt và bao dung, theo mỗi con người đến hết cuộc đời.Tình cảm ấy thường không bao giờ được nhẹ nhàng, âu yếm như của mẹ, nhưng nó cũng mãnh liệt, trọn vẹn và cũng vô cùng vững bền. Tuy nhiên khác với mẹ, tình cảm mẹ dành cho con được biểu lộ rất rõ ràng, nhưng còn với cha, nó rất thầm kín, ít khi được biểu lộ ra bên ngoài.chính vì thế tình cảm ấy rất thầm kín nhưng cũng rất mãnh liệt và luôn che chở cho chúng ta tiêu biểu như ” Ông sáu với Bé Thu trong văn bản Chiếc lược Ngà “. Tuy vậy hiện nay vẫn lại có rất nhiều người không hiểu được tình cảm của cha dành cho mình, có nhiều trường hợp còn có những hành vi ngược đãi cha. Tóm lại Tình phụ tử là tình cảm quan trọng trong mỗi cuộc đời con người, nó cũng thiêng liêng, cao cả và cảm động không kém gì tình mẫu tử và phải trân trọng nó khi còn có thể.

Đoạn văn mẫu 9

Trong cuộc đời này, cha có lẽ là người luôn thầm lặng dõi theo mỗi bước chân của ta. Không nhiều lời vỗ về, cũng không quá nhiều nhắc nhở, nhưng những ưu tư, trăn trở, những hành động quan tâm cùng tình yêu thương vô bờ của cha khiến mỗi người thêm mạnh mẽ hơn trước bao sóng gió của cuộc đời. Tình phụ tử xưa nay vẫn được biết đến là tình cảm cha con sâu nặng. Tình phụ tử sâu nặng, to lớn và thiêng liêng như trời bể không có bút mực có thể so sánh được. Đó là mối quan hệ khăng khít không thể tách rời giữa cha và con. Cha và con không chỉ có sự tương thích về mặt ngoại hình mà còn có sự gắn bó về mặt tâm hồn. Đó là sợi dây liên kết vô hình. Có thể, cha là người ít bộc lộ cảm xúc ra ngoài nhưng điều không có nghĩa là cha không buồn, không xúc động trước mọi việc xảy ra với con cái. Cái vẻ ngoài có phần lầm lì ít nói ấy vô tình đã che lấp đi tình cảm mãnh liệt. Và chính ta cũng thường hay tâm sự với mẹ nhiều hơn. Bởi hẳn có lẽ, mỗi người trong tiềm thức đều mang một nỗi sợ khi phải nói với cha, sợ đòn roi hay sợ trách mắng?. Và nó trở thành chứng ngại vật tạo ra một khoảng cách giữa ta và người cha thân thương của mình. Cha là trụ cột gia đình – một trụ cột về cả tài chính và tinh thần, mang trên vai trọng trách với gia đình nên chính ý thức trách nhiệm đó đã tạo nên một sự mạnh mẽ cứng rắn trong cha. Nhưng cha vẫn luôn yêu thương, quan tâm và sẵn sàng vươn đôi tay rộng lớn ra để bảo vệ con cái. Sau mỗi trận đánh, mỗi đòn roi lòng của cha còn đau hơn cả chúng ta. Cha còn là người đứng sau lưng và theo sát ta trong mỗi bước chân chập chững. Khi ta vấp ngã, cha không đưa tay ra đỡ, không làm hộ ta những điều ta phải làm mà cha nâng đỡ tạo thêm động lực cho ta thực hiện và hoàn thiện bản thân. Nên không phải ngẫu nhiên mà trong ngày đám cưới, cha sẽ là người dẫn con gái vào lễ đường. Trong giây phút xúc động đó, ta cũng thường thấy những giọt nước mắt rơi xuống từ đôi mắt có nhiều nếp nhăn của cha.

Đoạn văn mẫu 10

Tình phụ tử là một trong những tình cảm thiêng liêng nhất trong cuộc sống này. Nếu không có cha mẹ vất vả hi sinh thì sẽ không ta của ngày hôm nay. Tình phụ tử chính là bệ đỡ nâng đỡ tâm hồn ta. Trong cuộc sống có nhiều trúc trắc, nhiều cám dỗ khiến ta dễ sa đọa. Nhưng chỉ cần một lời khuyên răn chân thành kịp thời và đến từ người có tác động mạnh mẽ đến tâm khảm của ta – đó là lời khuyên của cha, thì ta sẽ được vực dậy khỏi hố sâu đen tối u mê. Và đôi lúc ta cảm thấy cuộc sống mệt mỏi, thì hãy quay về bên gia đình bên cha, bên mẹ. Đó luôn là nơi bình yên nhất trên hành tinh này. Bạn không cô đơn mà ở phía sau luôn có gia đình kề bên. Bên ngoài bạn có thể giả vờ mạnh mẽ cứng rắn bao nhiêu thì khi mệt mỏi bạn có thể quay trở về sà vào vòng tay của cha mà òa khóc như những chú chim non về tổ, không cần phải giả vờ mạnh mẽ trước mặt cha. Cha sẽ luôn bao dung cho mọi lỗi lầm và tìm cách giúp ta giải quyết vấn đề. Có thể đó là những hành động trực tiếp hoặc đôi khi chỉ là một cái vuốt tóc vỗ về nhưng cũng đã đủ tiếp thêm động lực cho ta. Mỗi khi mệt mỏi hãy nhớ đến vòng tay ấm áp của cha bạn sẽ có thêm sức lực để tiếp tục chiến đấu cho cuộc sống này. Sự nghiêm khắc của cha trong lời nói, trong hành động không phải vì cha không thương yêu chúng ta mà đó là cách thể hiện tình yêu thương của cha. Sẽ có lúc bạn phải cảm ơn cách giáo dục mạnh mẽ nghiêm khắc ấy để ta có thể đứng vững trong xã hội nhiều cạm bẫy này. Và đúng với câu “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”, nếu mẹ là đại diện cho những gì hiền dịu nhất thì cha lại đại diện cho những gì nghiêm khắc nhất. Bởi lẽ trong bất cứ gia đình nào cũng cần có một người đứng ra làm “nhân vật phản diện” để dạy dỗ con cái. Và vai trò đó thường do cha đảm nhiệm. Ta thường thấy mẹ làm việc nhà tất bật từ sáng đến tối nhưng cũng đừng quên cha của ta cũng vất vả lam lũ ngoài kia để kiếm từng đồng để nuôi nấng ta…

Advertisement

Đoạn văn mẫu 11

Cuộc sống con người có rất nhiều tình cảm thiêng liêng đáng quý, đáng trân trọng. Một trong số đó phải kể đến chính là tình phụ tử. Tình phụ tử là tình cảm, sự quan tâm, chăm sóc của người cha đối với con và sự đền ơn đáp nghĩa, sự yêu quý, kính trọng của con cái dành cho người cha của mình. Cha là những người sinh thành, nuôi dưỡng giáo dục, bao bọc chúng ta nên việc hiếu nghĩa là việc chúng ta phải làm để báo đáp công ơn đó. Mỗi người con khi yêu thương cha sẽ tạo nên những đức tính tốt đẹp khác đồng thời tạo giúp cho gia đình luôn tràn ngập tình yêu thương. Việc đối xử, thể hiện tình cảm với cha mình thể hiện phẩm chất, nhân cách của người đó. Tình phụ tử được biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau: Người cha luôn yêu thương, quan tâm chăm sóc đến người con của mình, ân cần dạy bảo để con thành người, nghiêm khắc trước những lỗi sai của con mình. Tình cảm cha dành cho con không được thể hiện rõ như tình mẫu tử nhưng nó luôn thường trực. Còn người con có nghĩa vụ yêu thương, tôn trọng, hiếu thảo với cha mình; nghe theo những lời khuyên bảo của cha; có những hành động đền ơn đáp nghĩa với cha mình. Tuy nhiên, trong xã hội có nhiều người con tuy mang ơn nghĩa to lớn của cha nhưng lại có hành động không đúng đắn: cãi lời cha mẹ, bất hiếu (không phụng dưỡng lúc về già, thậm chí là có hành động chửi bới, đánh đập,…) những người này đáng bị xã hội lên án, phê phán. Tình phụ tử cao cả là thế nhưng cha không thể cùng ta đi hết cuộc đời, chính vì thế, chúng ta hãy luôn yêu thương cha của mình và trân trọng mọi khoảnh khắc bên cha.

Đoạn văn mẫu 12

Tình phụ tử – một tình cảm thiêng liêng , sâu sắc theo ta suốt một quãng đời . Người xưa có câu “Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha”.Thật vậy , công cha dành cho những đứa con rất to lớn , chứa đựng tình yêu thương vô bờ bến , cha là trụ cột gia đình người luôn vất vả hơn để có thể cho gia đình một cuộc sống ấm no. Cha là người luôn nghiêm khắc với chúng ta , nhưng thật ra ông lại là người mềm lòng với chúng ta nhất , ông rất yêu thương và luôn bảo bọc , tâm sự khi chúng ta cần. Cha tôi đã ngoài bốn mươi ông có làn da sạm đen vì phải làm việc ngoài nắng, dù có thân hình không được to lớn nhưng ông vẫn rất khỏe , ông rất cố gắng trong công việc để kiếm thật nhiều tiền nuôi cả gia đình . Cha là người dạy tôi cách câu cá , cha là người dạy tôi đi xe đạp . Nếu không có cha thì tôi sẽ chẳng biết những điều đó. Tình yêu thương của cha khác với tình yêu của mẹ , mẹ luôn dỗ dành chúng ta , chở che chúng ta nhưng cha lại khác ông luôn muốn chúng ta có một cuộc sống tự lập , tự bước đi trên đôi chân của chính mình. Mỗi khi chúng ta cần một lời khuyên thì cha sẽ là người luôn sẵn lòng trò chuyện với chúng ta , mỗi lúc cần lời khuyên tôi đều hỏi cha của mình vì ông là người luôn gửi cho tôi những lời khuyên tốt nhất. Tình phụ tử luôn chiếm trong chúng ta một tình yêu sâu đậm mà có thể cả đời chúng ta cũng không quên được .Tôi rất yêu thương cha của mình vì tôi biết cha là người cực khổ nhất , cha là người luôn suy nghĩ cho gia đình.

Văn Mẫu Lớp 12: Đoạn Văn Nghị Luận Về Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dân Tộc (Dàn Ý + 9 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Lớp 12

Dàn ý viết đoạn văn về gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc

Viết đoạn văn về gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc

Viết đoạn văn ngắn về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc

Đoạn văn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc 

1. Mở đoạn

Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: việc giữ gìn bản sắc dân tộc.

2. Thân đoạn

a. Giải thích

Bản sắc văn hóa dân tộc: những nét văn hóa từ lâu đời của dân tộc được truyền từ đời này sang đời khác đã trở thành những phong tục tập quán, những đặc trưng vùng miền của cả đất nước ta.

b. Tầm quan trọng của bản sắc văn hóa dân tộc

Bản sắc văn hóa dân tộc hay cụ thể hơn là văn hóa vùng miền là nơi con người giao lưu văn hóa, cùng nhau tôn vinh vẻ đẹp của quê hương mình, cũng là nơi con người gắn kết với nhau, vui đùa chan hòa sau.

Bản sắc văn hóa dân tộc là những đặc trưng về văn hóa của quốc gia đó, là nét làm cho đất nước mình không bị nhầm lẫn với bất kì đất nước nào khác.

c. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc

Mỗi cá nhân đặc biệt là học sinh chúng ta phải tìm hiểu những bản sắc văn hóa vốn có của dân tộc, giữ gìn và phát huy những giá trị đó với bạn bè năm châu.

Nhà trường cần tổ chức nhiều hơn những hoạt động để tuyên truyền, mang đến cho học sinh nguồn tri thức về bản sắc văn hóa dân tộc.

Học sinh cần phải đặt trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc lên hàng đầu.

3. Kết đoạn

Khẳng định lại tầm quan trọng của bản sắc văn hóa dân tộc đồng thời rút ra bài học cho bản thân.

Trong thời kỳ hội nhập khu vực và toàn cầu về kinh tế, văn hóa và tất cả mọi lĩnh vực, chúng ta cần xác định những gì là bản sắc, là nét riêng của mình để giữ gìn, phát huy để cùng với các quốc gia, dân tộc khác trên thế giới làm giàu kho tàng văn hóa nhân loại. Văn hoá dân tộc Việt Nam ưa chuộng sự giản dị nhưng hết sức tinh tế và sâu sắc. Chính truyền thống văn hoá làm nên cội nguồn, gốc rễ cho dân tộc, từ đó hình thành nên ở con người Việt Nam lòng tự hào, tự tôn dân tộc, một niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Vì thế, nếu chúng ta không có ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá của chính dân tộc mình thì tự chúng ta sẽ làm mất đi vị thể riêng của mình, sẽ bị hoà tan vào những nền văn hoá khác trên thế giới. Có những thứ khi đã mất đi ta vẫn có thể lấy lại được nhưng có những điều nếu không níu giữ thì nó sẽ tuột khỏi tay ta mãi mãi. Từ những bài học của tiền nhân, chúng ta thấy rõ cái gì là tinh hoa của nhân loại, cần du nhập, chúng ta sẵn sàng nhập vào để làm phong phú thêm đời sống vật chất và tinh thần của mình. Những cái gì là của riêng ta, nhưng nếu rườm rà, không phù hợp với sự phát triển thì chúng ta cũng cần mạnh dạn xóa bỏ (như chuyện búi tó củ hành, chuyện nhuộm răng đen, chuyện mặc yếm, vấn khăn mỏ quạ…). Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa thời hội nhập là công việc của mọi nhà, của mọi người và toàn xã hội. Nhưng trước hết, đó là trách nhiệm của những người quản lý và các chuyên gia văn hóa. Mỗi người chúng ta hãy có ý thức giữ gìn những nét đẹp văn hoá của dân tộc mình, đặc biệt là thế hệ trẻ ngày nay. Việc giữ gìn truyền thống văn hoá phải bắt đầu từ việc giữ gìn truyền thống của mỗi gia đình, mồi địa phương, vùng miền cụ thể. Và mỗi nét đặc sắc trong văn hoá của hơn năm mươi dân tộc anh em sẽ làm nên một nền văn hoá Việt Nam đa dạng, đậm đà bản sắc.

Mỗi một quốc gia lại có bản sắc văn hóa dân tộc khác nhau tạo nên sự đa dạng về văn hóa toàn cầu. Là một công dân của đất nước, chúng ta cần có ý thức và trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc, quê hương mình. Bản sắc văn hóa dân tộc là giá trị cốt lõi nhất của nền văn hóa, thể hiện tâm hồn, cốt cách, tình cảm, lý trí, sức mạnh của dân tộc, tạo nên chất keo kết nối các cộng đồng người gắn bó, đoàn kết với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Những giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những động lực to lớn đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của quốc gia dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành, phát triển gắn liền với lịch sử dựng nước, giữ nước và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng hòa những giá trị văn hóa bền vững, phản ánh diện mạo, sắc thái, cốt cách, tâm hồn, tâm lý… của một dân tộc, được thường xuyên hun đúc, bổ sung và lan tỏa trong lịch sử dân tộc, trở thành tài sản tinh thần đặc sắc, tạo nên sức mạnh gắn kết cộng đồng và để phân biệt sự khác nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác trong cộng đồng nhân loại. Thế hệ trẻ là những người nắm giữ tương lai của đất nước, bởi vậy, nâng cao ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là một điều vô cùng cần thiết. Mỗi thanh niên, thiếu niên phải thực sự thấy được giá trị của văn hoá dân tộc dù có đi đâu, sống ở nơi nào, con người đó vẫn luôn là người dân nước Việt. Cần phải kế thừa phát huy nhưng đồng thời cũng phải phát triển nó lên bằng cách kết hợp có lựa chọn với những yếu tố văn hoá mới tích cực. Từ đó hình thành một nền văn hoá Việt Nam vừa truyền thống, vừa hiện đại, đa dạng, vừa thống nhất, đảm bảo được yêu cầu “hoà nhập nhưng không hoà tan” trong một thời đại mới. Thực hiện điều này là trọng trách, là nghĩa vụ của mỗi công dân, của mỗi thanh, thiếu niên hôm nay.

Bản sắc văn hóa là thiêng liêng, quý giá, nó tạo nên nét đặc thù của mỗi dân tộc. Nó dược hình thành trong lịch sử lâu dài của một dân tộc, đúc kết tư kinh nghiệm sống, được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Nó tồn tại tự nhiên, được biểu hiện ra bề ngoài nhưng cũng có thể ẩn sâu trong tâm hồn con người. Giữ gìn bản sắc văn hóa là một yêu cầu vừa lâu dài vừa cấp thiết. Cần phải có kế hoạch và giải pháp đổng bộ về bảo tồn về phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam. Trước hết, mỗi người cẩn nhận thức được văn hoá dân tộc là cội rễ bền vững của tâm hồn mỗi con người, không lớn lên và bám chắc vào cội rễ đó, mỗi con người chỉ còn là một cá nhân lạc loài giữa cộng đồng của mình. Đánh mất bản sắc riêng trong nến văn hoá của minh là đánh mất quá khứ, mất lịch sử, mất cội nguồn, sẽ bị hòa tan trong những nền văn hoá khác trong điều kiện giao lưu quốc tế mở rộng như hiện nay. Do vậy, việc tìm hiểu, giữ gìn những giá trị nhân văn trong văn hoá truyền thống chính là quá trình nhận chân những giá trị của dân tộc Việt nhằm giúp chúng ta tự tin hơn về những gì mình đá có, đang có và tiếp tục phát huy nó trong cuộc sống hiện tại.

Trong bối cảnh hòa nhập vào nền kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò vị trí của bản sắc văn hóa dân tộc càng được khẳng định hơn nữa và gắn bó mật thiết với trách nhiệm của thế hệ trẻ. Là những chủ nhân tương lai của đất nước, thế hệ thanh thiếu niên học sinh Việt Nam đã và đang phát huy bản sắc dân tộc bằng những việc làm tích cực. Mặc dù có sự du nhập và tác động từ văn hóa nước ngoài nhưng không ít bạn trẻ vẫn tìm về với những giá trị truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc như những trò chơi dân gian, những loại hình văn hóa dân gian như ca trù, nhã nhạc cung đình,…, đặc biệt là không ngần ngại quảng bá hình ảnh của Việt Nam ra thế giới. Trong phần thi về Trang phục dân tộc, Hoa hậu H’Hen Niê đã tỏa sáng với bộ quốc phục được lấy cảm hứng từ những chiếc bánh mì, mang theo niềm tự hào về thành tựu nông nghiệp của nước ta trên đấu trường nhan sắc quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó, trong xã hội hiện nay, chúng ta vẫn dễ dàng bắt gặp những thanh niên với lối sống xa rời bản sắc dân tộc. Họ thờ ơ với những giá trị truyền thống ở cả vật chất cũng như tinh thần; và đề cao những giá trị văn hóa du nhập ở nước ngoài qua sự thần tượng, sính ngoại vượt ngưỡng cho phép. Thế hệ trẻ cần ý thức được vai trò, ý nghĩa của bản sắc dân tộc để nâng cao tinh thần gìn giữ những giá trị tốt đẹp này. Đồng thời, cần rèn luyện lối sống, những hành động tích cực phù hợp với những truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc, bảo lưu, phát huy những giá trị riêng đậm đà bản sắc dân tộc.

Chúng ta được sinh ra và lớn lên không chỉ dựa vào những vật chất bên ngoài mà cả những giá trị tinh thần bên trong. Chính vì thế, giới trẻ chúng ta ngày nay cần có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc chính là những nét văn hóa từ lâu đời của dân tộc được truyền từ đời này sang đời khác đã trở thành những phong tục tập quán, những đặc trưng vùng miền của cả đất nước ta. Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị tạo nên sự khác biệt của mỗi quốc gia, sự phong phú trong lối sống, sinh hoạt tập thể của con người và tạo nên sự đa dạng màu sắc cho cuộc sống. Bản sắc văn hóa dân tộc hay cụ thể hơn là văn hóa vùng miền là nơi con người giao lưu văn hóa, cùng nhau tôn vinh vẻ đẹp của quê hương mình, cũng là nơi con người gắn kết với nhau, vui đùa chan hòa sau. Bản sắc văn hóa dân tộc là những đặc trưng về văn hóa của quốc gia đó, là nét làm cho đất nước mình không bị nhầm lẫn với bất kì đất nước nào khác. Trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là trách nhiệm chung của mọi người đặc biệt là với giới trẻ. Mỗi người học sinh chúng ta phải tìm hiểu những bản sắc văn hóa vốn có của dân tộc, giữ gìn và phát huy những giá trị đó với bạn bè năm châu. Bên cạnh đó, nhà trường cần tổ chức nhiều hơn những hoạt động để tuyên truyền, mang đến cho học sinh nguồn tri thức về bản sắc văn hóa dân tộc. Học sinh chúng ta cần phải đặt trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc lên hàng đầu, ngoài ra ta cần tích cực trau dồi hiểu biết của mình về những giá trị văn hóa tốt đẹp của nước nhà. Mỗi ngày nỗ lực hơn một chút, nâng cao ý thức hơn một chút ta sẽ tiến bộ hơn từng ngày và những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc sẽ được bảo vệ, giữ gìn, đất nước cũng từ đó phát triển hưng thịnh hơn.

Mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ lại có một bản sắc, một nét đẹp văn hóa khác nhau. Chúng ta cần phải biết giữ gìn bản sắc văn hóa của mình cũng như quảng bá những nét đắc sắc đó đến với bạn bè năm châu. Bản sắc văn hóa dân tộc là những nét văn hóa từ lâu đời của dân tộc được truyền từ đời này sang đời khác đã trở thành những phong tục tập quán, những đặc trưng vùng miền của cả đất nước ta. Bên cạnh đó, bản sắc văn hóa dân tộc còn là những giá trị tạo nên sự khác biệt của mỗi quốc gia, sự phong phú trong lối sống, sinh hoạt tập thể của con người và tạo nên sự đa dạng màu sắc cho cuộc sống. Bản sắc văn hóa dân tộc có tầm quan trọng lớn lao đối với cuộc sống của mỗi người nói riêng và sự phát triển của đất nước nói chung. Bản sắc văn hóa dân tộc hay cụ thể hơn là văn hóa vùng miền là nơi con người giao lưu văn hóa, cùng nhau tôn vinh vẻ đẹp của quê hương mình, cũng là nơi con người gắn kết với nhau, vui đùa. Bản sắc văn hóa dân tộc còn là những đặc trưng về văn hóa của quốc gia đó, là nét làm cho đất nước mình không bị nhầm lẫn với bất kì đất nước nào khác. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều nét đẹp trong bản sắc văn hóa dân tộc của Việt Nam ta đang bị mai một, mất dần đi hoặc suy thoái, biến tướng thành nhiều thể loại khác. Chính vì thế, mỗi cá nhân đặc biệt là học sinh chúng ta phải có ý thức tìm hiểu những bản sắc văn hóa vốn có của dân tộc, giữ gìn và phát huy những giá trị đó với bạn bè năm châu. Nhà trường cần tổ chức nhiều hơn những hoạt động để tuyên truyền, mang đến cho học sinh nguồn tri thức về bản sắc văn hóa dân tộc. Mỗi người học sinh cần phải đặt trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc lên hàng đầu, tích cực trau dồi hiểu biết của mình về những giá trị văn hóa tốt đẹp của nước nhà.

Đất nước đang trong quá trình hội nhập quốc tế, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là vấn đề vô cùng quan trọng. Ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của thanh thiếu niên Việt Nam được biểu hiện ở nhiều phương diện: cách sống, lối sống, quan niệm, suy nghĩ, ở hoạt động, nói năng, ăn mặc, ứng xử…. Văn hoá dân tộc là cội rễ bền vững của tâm hồn mỗi con người, không lớn lên và bám chắc vào cội rễ đó, mỗi con người chỉ còn là một cá nhân lạc loài giữa cộng đồng của mình. Bản sắc văn hoá là linh hồn, là gương mặt riêng của mỗi dân tộc, là yếu tố quan trọng để khẳng định vị thế của dân tộc đó ở giữa cộng đồng thế giới. Đánh mất bản sắc riêng trong nền văn hoá của mình là đánh mất quá khứ, mất lịch sử, mất cội nguồn và chúng ta chỉ còn là một con số không ở giữa nhân loại. Rất nhiều thanh, thiếu niên Việt Nam không nắm được lịch sử dân tộc dù đã được học rất nhiều, trong khi đó lại thuộc lòng vanh vách tiểu sử, đời tư của các diễn viên, ca sĩ. Tất cả đều là biểu hiện của một sự thiếu ý thức trong giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Có hai nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng trên. Về phía khách quan, đó chính là tác động của môi trường sống, của bối cảnh thời đại. Thời đại đất nước mở cửa giao lưu, hội nhập với thế giới cho nên văn hoá bên ngoài theo đó mà tràn vào Việt Nam. Đâu đâu cũng có thể dễ dàng bắt gặp hình ảnh của một thứ văn hoá mới, hiện đại và đầy quyến rũ. Về chủ quan, thế hệ trẻ ngày nay ít quan tâm để ý đến vấn đề bản sắc văn hoá. Họ thiếu ý thức giữ gìn, bởi thực chất là họ không hiểu được bản sắc văn hoá dân tộc là gì và cũng không cần hiểu. Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là đóng góp có ý nghĩa đầu tiên cho đất nước mà mỗi thanh thiếu niên có thể làm và hãy làm bắt đầu từ việc điều chỉnh, uốn nắn chính những hành vi, ý thức của bản thân mình.

Bản sắc văn hóa dân tộc là giá trị cốt lõi nhất của nền văn hóa, thể hiện tâm hồn, cốt cách, tình cảm, lý trí, sức mạnh của dân tộc, tạo nên chất keo kết nối các cộng đồng người gắn bó, đoàn kết với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Những giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những động lực to lớn đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của quốc gia dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành, phát triển gắn liền với lịch sử dựng nước, giữ nước và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng hòa những giá trị văn hóa bền vững, phản ánh diện mạo, sắc thái, cốt cách, tâm hồn, tâm lý… của một dân tộc, được thường xuyên hun đúc, bổ sung và lan tỏa trong lịch sử dân tộc, trở thành tài sản tinh thần đặc sắc, tạo nên sức mạnh gắn kết cộng đồng và để phân biệt sự khác nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác trong cộng đồng nhân loại. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực còn có mặt tiêu cực của nó đó là nguy cơ xói mòn, phai nhạt và biến dạng hệ thống giá trị trong bản sắc văn hóa dân tộc, sự du nhập của lối sống tư sản, suy giảm thuần phong mĩ tục, sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Những giá trị tinh hoa văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc được xây dựng và ghi nhận bởi những chiến công hi sinh thầm lặng của biết bao thế hệ người dân Việt Nam. Nó là kết tinh những gì là tinh túy nhất của dân tộc để rồi chính những giá trị đó lại lung linh tỏa sáng, soi sáng con đường chúng ta đi. Không chỉ bây giờ mà mãi mãi về sau những giá trị tinh hoa văn hóa của dân tộc sẽ là hành trang, động lực để cho thanh niên Việt Nam chúng ta tiến vào kỷ nguyên mới tô thắm nên truyền thống ngàn năm văn hiến của dân tộc.

Advertisement

Mỗi một quốc gia có một bản sắc văn hóa dân tộc riêng biệt. Là công dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chúng ta cần có ý thức bảo vệ, gữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Bản sắc văn hóa dân tộc chính là những nét văn hóa từ lâu đời của dân tộc được truyền từ đời này sang đời khác đã trở thành những phong tục tập quán, những đặc trưng vùng miền của cả đất nước ta. Bên cạnh đó, bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị tạo nên sự khác biệt của mỗi quốc gia, sự phong phú trong lối sống, sinh hoạt tập thể của con người và tạo nên sự đa dạng màu sắc cho cuộc sống. Bản sắc văn hóa dân tộc hay cụ thể hơn là văn hóa vùng miền là nơi con người giao lưu văn hóa, cùng nhau tôn vinh vẻ đẹp của quê hương mình, cũng là nơi con người gắn kết với nhau, vui đùa chan hòa sau. Bản sắc văn hóa dân tộc là những đặc trưng về văn hóa của quốc gia đó, là nét làm cho đất nước mình không bị nhầm lẫn với bất kì đất nước nào khác. Mỗi cá nhân đặc biệt là học sinh chúng ta phải tìm hiểu những bản sắc văn hóa vốn có của dân tộc, giữ gìn và phát huy những giá trị đó với bạn bè năm châu. Ngoài ra, nhà trường cần tổ chức nhiều hơn những hoạt động để tuyên truyền, mang đến cho học sinh nguồn tri thức về bản sắc văn hóa dân tộc. Là một người học sinh, chúng ta cần phải đặt trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc lên hàng đầu, tích cực trau dồi hiểu biết của mình về những giá trị văn hóa tốt đẹp của nước nhà. Mỗi người một hành động nhỏ tạo nên hiệu ứng lớn, mỗi chúng ta hãy thay đổi bản thân ngay từ hôm nay.

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Phong Cách Triết Luận Trữ Tình Của Nguyễn Khoa Điềm Trong Đất Nước Dàn Ý Và 3 Bài Văn Mẫu Lớp 12 Hay Nhất trên website Pwqy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!