Xu Hướng 9/2023 # Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Món Bánh Xèo 2 Dàn Ý &Amp; 12 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 8 Hay Nhất # Top 17 Xem Nhiều | Pwqy.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Món Bánh Xèo 2 Dàn Ý &Amp; 12 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 8 Hay Nhất # Top 17 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Món Bánh Xèo 2 Dàn Ý &Amp; 12 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 8 Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Pwqy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Bánh xèo giàu năng lượng, chứa nhiều chất có lợi cho sức khỏe. Bánh xèo thích hợp ăn vào thời tiết lạnh và ngon nhất khi ăn nóng. Với 12 bài thuyết minh bánh Xèo sẽ giúp các em nhanh chóng hoàn thiện bài văn thuyết minh về đặc sản của quê hương thật hay.

1. Mở bài:

Giới thiệu về món bánh xèo.

2. Thân bài:

a. Nguyên liệu làm bánh xèo:

Bột gạo, bột bắp, bột nghệ, nước ấm, nước cốt dừa, trứng gà, giá đỗ, tôm, hành lá, nấm.

Rau sống: Xà lách, diếp cá, rau húng, rau cải.

Gia vị: Muối, tiêu, tỏi, ớt (băm nhỏ), nước mắm.

b. Cách làm bánh xèo:

Rau sống, giá đỗ nhặt bỏ gốc, lá vàng rồi rửa sạch, để ráo nước.

Cho bột gạo, bột bắp, bột nghệ, nước ấm, nước cốt dừa, trứng gà vào một tô lớn sau đó khuấy đều rồi rắc thêm một chút muối cho đượm vị.

Tôm, nấm rửa sạch, thái nhỏ rồi cho lên chảo cùng nước mắm, tiêu và đảo sơ qua cho tôm và nấm chín.

Lấy một chiếc chảo chống dính, quét dầu ăn sơ qua bề mặt chảo rồi múc từng thìa canh bột vừa trộn vào sau đó cho tôm, nấm vừa xào cùng giá đỗ vò giữa vỏ bánh và gập vỏ bánh lại.

Chiên vàng đều hai mặt bánh rồi cho bánh ra đĩa, cắt thành từng miếng vừa ăn.

Pha nước chấm chua ngọt với tỉ lệ 3 muỗng canh nước lọc, 1 muỗng canh đường, 1 muỗng canh mắm rồi rắc thêm chút tỏi ớt.

c. Cách thưởng thức bánh xèo:

Dùng tay cuốn bánh lại cho vừa miệng, ăn kết hợp với rau sống cho đỡ ngấy.

Thưởng thức bánh xèo cùng chén trà hoặc nước ngọt để tăng thêm mùi vị của món ăn.

3. Kết bài:

Giá trị của món bánh xèo.

I. Mở bài:

Trong các món bánh mặn của Nam bộ, bánh xèo là món phổ biến, được người ăn ưa thích nhất.

II. Thân bài:

* Chuẩn bị nguyên vật liệu:

Bột bánh là phần quan trọng nhất, bánh có ngon hay không là ở khâu này.

Muốn cho bột bánh xèo ngon phải là loại gạo thơm, gạo mới, ngâm trong một buổi hoặc một đêm rồi đem xay nhuyễn.

Ngày nay có bột bánh xèo pha chế sẵn cũng tiện dụng nhưng phải trộn thêm theo công thức, một bịch bột bánh xèo pha thêm một bịch bột chiên giòn hoặc bột bắp và nước cốt dừa thì bánh mới béo giòn.

Dùng bột gạo tươi thì sau khi lược bột xong, pha thêm một bịch bột chiên giòn, nước cốt dừa, đường, muối sao cho độ béo ngọt theo đúng khẩu vị người ăn, bỏ thêm hành lá xắt nhỏ, bột nghệ, trứng gà đánh nhuyễn.

– Người Nam bộ rất thích nước cốt dừa nên pha đậm đặc càng ngon (mà vị béo của nước cốt dừa không có vị béo nào sánh kịp), bánh khi chín có nước cốt dừa rất dễ lấy ra.

Nhân bánh muốn ngon phải có nấm rơm, nấm hương, nấm kim chi hay nấm đông cô, tôm hoặc tép, thịt gà hay thịt vịt băm nhuyễn, giá sống và củ sắn. có người còn bỏ cả cơm dừa xắt sợi, hoặc đậu xanh nấu chín, nhưng hai loại này làm cho dễ ngán không ăn được nhiều.

Nấm làm nhân bánh có thể thay đổi theo từng mùa.

Mùa nấm rơm thì làm nấm rơm, không có nấm rơm thì hái nấm mèo trên các cây so đũa hoặc mùa mưa thì có bông điên điển…

Rau sống và nước mắm là những thành phần quan trọng làm cho bánh thêm ngon.

Rau sống phải có đủ họ tộc như: diếp cá, xà lách, tần ô, húng cây. húng lìu, quế, không được thiếu lá cách và cải bẹ xanh (loại cây thân nhỏ).

Chén nước mắm nêm nếm cho đủ độ mặn, ngọt, chua, cỏ màu đỏ của ớt. màu vàng của nước mắm màu xanh của xoài sống băm nhuyễn và màu đỏ trắng của dưa củ cải.

* Cách làm và trình bày:

Khi tất cả vật liệu đã sẵn sàng thi người đổ bánh mới bắt đầu nổi lửa.

Nếu lượng người ăn đông phải đổ hai chảo mới kịp đãi khách.

Ở miền quê, các bà nội trợ đổ bánh bằng chảo gang hay chảo bằng vỏ trái bom cắt ra, ở thành phố có loại chảo không dính tương đối tiện lợi.

Khi chảo thật nóng thì đổ thử một vài cái xem mùi vị và độ đặc lỏng của bột vừa hay chưa, sau dđ mới đổ thật sự.

Lấy miếng mỡ heo cắt hình vuông khoảng 3cm đảo qua chảo một lượt, bỏ tép hoặc tôm và thịt ba rọi xắt sợi nhỏ vào chảo, đảo cho đỏ lên hồng lên. Tiếp đó đổ một vá bột lên chảo nghe xèo xèo rồi tráng đều cho tròn cái bánh mới khéo, lần lượt bỏ nấm, thịt gà, giá, củ sắn và đậy nắp lại.

Hai phút sau, giở nắp ra, tiếp tục “dần trên lửa”, bánh chín có màu vàng như mặt trăng rằm. Trên đó. màu đỏ của tôm, màu xanh của hành, màu nâu hoặc trắng của nấm, mùi thơm dậy của nước dừa và hột gà khiến cho cho chiếc bánh hấp dẫn đặc biệt. Bánh được xếp lại theo hình rẻ quạt, nóng hôi hổi trên chiếc mâm lót lá chuối hay trên chiếc đĩa sứ trắng ngà.

* Thưởng thức:

Ăn bánh xèo nên dùng tay, không cần đũa nĩa gì cả.

Dùng tay để cuốn bánh cho gọn và cảm nhận được độ nóng ấm của bánh mới thấy ngon miệng.

Ăn bánh nên uống với nước trà nóng hoặc với bia, rượu mới tiêu được mỡ dầu.

Vừa ăn, vừa đàm đạo chuyện trò, lúc đói bụng có người dám ăn cả chục bánh, có người ăn trừ cơm cả ngày.

III. Kết bài:

Màu sắc đẹp, mùi vị hấp dẫn. Chất dinh dưỡng cao, bánh xèo là món bánh độc đáo, đậm đà hương vị Nam bộ.

Ở thời điểm hiện tại, vẫn chưa có kết luận chính xác về nguồn gốc của bánh xèo. Theo một số ghi chép, món bánh này bắt nguồn từ miền Trung Việt Nam. Được biết từ thời Tây Sơn bánh xèo đã trở thành một món ăn rất phổ biến. Một số khác lại cho rằng, bánh xèo được lấy cảm hứng từ món bánh khoái của người Huế. Có rất nhiều ý kiến khác nhau về sự ra đời của bánh xèo, tuy nhiên bánh xèo ở miền Trung vẫn ngon và chuẩn vị nhất.

Để làm ra được một chiếc bánh xèo ngon và đẹp mắt thì khâu chuẩn bị rất quan trọng. Đầu tiên là vỏ bánh, ngoài bột gạo, thì người thợ cần phải chuẩn bị bột chiên giòn, nước cốt dừa, trứng, đường, muối, bột nghệ và hành lá. Nguyên liệu làm nhân bánh có thể thay đổi theo vùng miền. Về cơ bản thì cần chuẩn bị nấm, thịt gà hoặc thịt lợn, tép hoặc tôm nhỏ, giá đỗ. Bên cạnh đó vó thể thêm đậu xanh hoặc dừa nạo tùy khẩu vị.

Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ các nguyên liệu, người thợ sẽ bắt tay vào thực hiện. Gạo làm bánh phải là loại gạo thơm, gạo mới. Nếu dùng loại gạo đã lâu ngày thì bánh sẽ hôi. Trước khi đưa vào xay nhuyễn, người ta sẽ ngâm gạo qua đêm. Như vậy bột mới có độ mềm và mịn. Gạo xay xong sẽ chắt thật sạch nước rồi mới đem pha. Pha bột gạo cùng bột chiên giòn và nước cốt dừa để tăng độ giòn và ngậy. Sau đó cho thêm trứng và bột nghệ vào đánh đều cho tan hẳn. Điều đó sẽ giúp bánh xèo lên màu đẹp hơn. Cuối cùng cho thêm chút hành lá cắt nhỏ. Để tráng bánh, người ta sử dụng chảo sâu lòng hoặc chảo chống dính. Quét lớp mỡ mỏng xuống dưới đáy chảo, đợi chảo nóng rồi đổ nấm, tôm, thịt vào đảo đều. Khi các nguyên liệu đã gần chín, người thợ sẽ đổ bột vào, tráng cho thật mỏng. Bước này đòi hỏi sự khéo léo và cẩn thận. Bột tráng càng mỏng thì bánh sẽ càng giòn và hấp dẫn. Sau đó rắc giá đỗ lên trên cùng (có thể cho thêm đậu xanh đã nấu chín). Cuối cùng, lật giở bánh lại nhiều lần trên lửa nhỏ cho đến khi vàng đều rồi cho ra đĩa.

Tiếp theo là công đoạn pha nước chấm. Nước chấm bánh xèo là sự hòa quyện, kết hợp giữa bốn vị chua, cay, mặn, ngọt. Tùy vào khẩu vị mà mức độ các vị sẽ khác nhau. Chiếc bánh xèo giòn rụm cùng đĩa rau sống, thêm chén nước mắm tỏi ớt thơm ngon sẽ là lựa chọn khó có thể chối từ. Khi thưởng thức, người ta sẽ cắt một miếng bánh, đặt lên rau sống sau đó mới chấm cùng nước mắm tỏi ớt, uống cùng ly trà nóng hoặc một ly bia đều rất hợp.

Bánh xèo ở mỗi miền Bắc, Trung, Nam lại có một cách chế biến cùng hương vị đặc trưng riêng. Ở miền Bắc, bánh xèo được tráng trong chảo lòng sâu để bánh chín nhanh và vàng đều. Nhân bánh thường được cho thêm hành tây thái nhỏ để tăng độ ngọt. Bên cạnh đó, loại nước chấm ở miền Bắc thường thiên về cay và mặn nhiều hơn. Còn ở miền Trung người ta sẽ sử dụng dầu lạc để xào nhân và tráng bánh. Phần nước chấm của bánh xèo cũng khác hoàn toàn so với miền Bắc. Nước chấm bánh là sự kết hợp giữa gan heo, đậu phộng và bột gạo. Tạo nên một hương vị thật đặc biệt, khó quên. Bánh xèo miền Nam lại níu chân du khách bằng cách biến tấu các nguyên liệu trong chế biến và thưởng thức. Sử dụng ốc để làm nhân bánh, dùng cà rốt để cho vào nước chấm kết hợp chung với hơn 20 loại rau sống ăn kèm làm cho món bánh miền Nam có mùi vị khác lạ, độc đáo.

Bánh xèo là một món ăn thơm ngon, độc đáo mang đậm hương vị vùng miền nhờ sự kết hợp nguyên liệu đa dạng, phong phú. Cùng với các món ăn khác, bánh xèo đã và đang làm nên nét đẹp độc đáo trong ẩm thực Việt.

Mỗi một vùng miền trên lãnh thổ Việt Nam đều mang một nét đẹp riêng về văn hóa, lịch sử và cả ẩm thực với những món ăn đặc sản độc đáo. Từ lâu, món bánh xèo đã được coi là một trong những thức quà đặc trưng của miền Trung và miền Nam. Với bề ngoài có màu vàng ươm bắt mắt, món bánh xèo Việt Nam đã chinh phục được rất nhiều vị khách du lịch khó tính trong và ngoài nước.

Để làm nên một món bánh xèo ngon, chất lượng thì quá trình tuyển chọn nguyên liệu là bước đầu tiên và vô cùng quan trọng. Nguyên liệu làm bánh xèo phải được lựa chọn kỹ càng và phải tươi ngon thì mới đảm bảo giá trị dinh dưỡng trong món ăn. Nguyên liệu làm bánh xèo bao gồm: Bột gạo, bột bắp, bột nghệ, nước ấm, nước cốt dừa, trứng gà, giá đỗ, tôm, hành lá, nấm. Để giúp cho món bánh xèo ăn đỡ ngán thì nhất định không thể thiếu món rau sống. Rau sống để ăn bánh xèo cần phải có xà lách, diếp cá, rau húng, rau cải được ăn kèm với nhau tạo nên sự đa dạng của hương vị trong từng miếng cắn. Tuy nhiên, bí quyết để tạo nên sự thành công rực rỡ của món bánh xèo chính là ở nước chấm. Gia vị để pha nước chấm bao gồm: Tiêu, tỏi, ớt (băm nhỏ), nước mắm, đường, muối.

Không phải bất cứ ai cũng đủ khéo léo để làm được chiếc bánh xèo vừa giòn rụm lại vừa chín đều mà không bị cháy. Trước khi bắt tay vào làm bánh xèo bạn cần phải sơ chế nguyên liệu. Rau sống, giá đỗ nhặt bỏ gốc, lá vàng rồi rửa sạch, để ráo nước trước khi ăn cùng bánh xèo thì sẽ không gây đau bụng cho những ai có hệ tiêu hóa kém. Sau đó bạn cho bột gạo, bột bắp, bột nghệ, nước ấm, nước cốt dừa, trứng gà vào một tô lớn khuấy đều rồi rắc thêm một chút muối cho đượm vị, tiếp tục khuấy đều bột cho đến khi các loại bột hòa quyện lại với nhau, không vón cục và tạo thành một hỗn hợp hơi sệt có màu vàng nhạt. Bánh xèo thì nhất định không thể thiếu phần nhân tôm đặc trưng. Tôm, nấm rửa sạch, thái nhỏ rồi cho lên chảo cùng nước mắm, tiêu và đảo sơ qua cho tôm và nấm chín rồi cho hỗn hợp vừa đảo ra bát. Công đoạn tiếp theo để làm nên món bánh xèo đòi hỏi sự tỉ mỉ và nhanh tay của người làm bánh đó chính là công đoạn tráng vỏ bánh. Để vỏ bánh không bị cháy đen và dễ lật bánh thì bạn cần phải sử dụng một chiếc chảo chống dính rồi quét dầu ăn sơ qua bề mặt chảo sau đó múc từng thìa canh bột vừa trộn vào chảo cho hỗn hợp lan đều ra toàn bộ mặt chảo thì cho tôm, nấm vừa xào cùng giá đỗ vò giữa vỏ bánh và gập vỏ bánh lại. Tiếp tục chiên vàng đều hai mặt bánh rồi cho bánh ra đĩa, cắt thành từng miếng vừa ăn. Vậy là bạn đã hoàn thành xong công đoạn phức tạp nhất của quá trình làm món bánh xèo rồi đó. Bí quyết để tạo nên sự thành công của món bánh chính là cách pha nước chấm chua ngọt. Bạn nên pha nước chấm theo tỉ lệ 3 muỗng canh nước lọc, 1 muỗng canh đường, 1 muỗng canh mắm rồi rắc thêm chút tỏi ớt và vắt thêm 1 thìa cà phê nước cốt chanh vào hỗn hợp sau đó khuấy đều để cảm nhận được vị chua, cay, mặn, ngọt khi ăn kèm với bánh.

Miếng bánh xèo vàng ươm, giòn rụm được bao bọc bên ngoài bởi các loại rau sống ngon không thể chối từ. Bạn cuộn bánh lại thành miếng vừa ăn rồi chấm ngay vào bát nước chấm tỏi ớt đượm vị và thưởng thức ngay để cảm nhận được mĩ vị trên đời. Khi ăn bánh bạn nên thưởng thức thêm chén trà hay nước ngọt để tăng thêm mùi vị của món ăn mà không hề cảm thấy ngấy vì dầu mỡ.

Bánh xèo chính là nét đẹp của nền văn hóa ẩm thực Việt Nam. Đất nước ngày càng phát triển với sự du nhập nhiều món ăn mới lạ đến từ nhiều quốc gia khác nhau nhưng món bánh xèo vẫn vẹn nguyên giá trị của nó và vẫn được rất nhiều người Việt Nam cũng như bạn bè quốc tế yêu thích.

Trong các món bánh mặn của Nam bộ, bánh xèo là món phổ biến, được người ăn ưa thích nhất.

Ăn bánh xèo có đông người mới vui vì khi làm bánh phải qua nhiều công đoạn nên cần nhiều người. Người ta phân công nhau bằng những câu vè vui vẻ như: “Người nào xấu xấu xay bột, lật hành. Người nào lanh lanh băm nhân, dò bánh…”

Muốn cho bánh ngon phải chịu khó, chịu cực một chút. Bột bánh là phần quan trọng nhất, bánh có ngon hay không là ở khâu này. Dân nông thôn không chịu loại bột gạo bịch sẵn, bày bán ở chợ vì đó là gạo dơ ngâm nước cho bã ra nhiều nước rồi gạn lấy bột nên chất bột bị chua và lạt, không còn bổ dưỡng, thơm ngon.

Muốn cho bột bánh xèo ngon phải là loại gạo thơm, gạo mới, ngâm trong một buổi hoặc một đêm rồi đem xay nhuyễn. Ngày nay có bột bánh xèo pha chế sẵn cũng tiện dụng nhưng phải trộn thêm theo công thức, một bịch bột bánh xèo pha thêm một bịch bột chiên giòn hoặc bột bắp và nước cốt dừa thì bánh mới béo giòn.

Dùng bột gạo tươi thì sau khi lược bột xong, pha thêm một bịch bột chiên giòn, nước cốt dừa, đường, muối sao cho độ béo ngọt theo khẩu vị người ăn, bỏ thêm hành lá xắt nhỏ, bột nghệ, trứng gà đánh nhuyễn. Người Nam bộ rất thích nước cốt dừa nên pha đậm đặc càng ngon (mà vị béo của nước cốt dừa không có vị béo nào sánh kịp), bánh khi chín có nước cốt dừa rất dễ lấy ra.

Nhân bánh muốn ngon phải có nấm rơm, nấm hương, nấm kim chi hay nấm đông cô, tôm hoặc tép, thịt gà hay thịt vịt băm nhuyễn, giá sống và củ sắn, có người còn bỏ cá cơm dừa xắt sợi, hoặc đậu xanh nấu chín, nhưng hai loại này làm cho dễ ngán không ăn được nhiều. Nấm làm nhân bánh có thể thay đổi theo từng mùa. Mùa nấm rơm thì làm nấm rơm, không có nấm rơm thì hải nấm mèo trên các cây so đũa hoặc mùa mưa thì có bông điên điển…

Rau sống và nước mắm là những thành phần quan trọng làm cho bánh thêm ngon. Rau sống phải có đủ họ tộc như: diếp cá, xà lách, tần ô, húng cây, húng lủi, quế không được thiếu lá cách và cải bẹ xanh (loại cải thân nhỏ). Chén nước mắm nêm nếm cho đủ độ mặn, ngọt, chua, cỏ màu đỏ của ớt, màu vàng của nước mắm, màu xanh của xoài sống bằm nhuyễn và màu đỏ trắng của dưa của cải.

Khi tất cả vật liệu đã sẵn sàng thì người đổ bánh mới bắt đầu nổi lửa. Nếu lượng người ăn đông phải đổ hai chảo mới kịp đãi khách, ở miền quê, các bà nội trợ đổ bánh bằng chảo gang hay chảo bằng vỏ trái bom cắt ra, ở thành phố có loại chảo không dính tương đối tiện lợi. Khi chảo thật nóng thì đổ thử một vài cái xem mùi vị và độ đặc lỏng của bột vừa hay chưa, sau đó mới đổ thật sự.

Lấy miếng mỡ heo cắt hình vuông khoảng 3 cm đảo qua chảo một lượt, bỏ tép hoặc tôm và thịt ba rọi xắt sợi nhỏ vào cháo, đảo cho đỏ lên hồng lên, tiếp đó đổ một vá hột lên chảo nghe xèo xèo rồi tráng đều cho tròn cái bánh mới khéo, lần lượt bỏ nấm, thịt gà, giá, củ sắn và đậy nắp lại. Hai phút sau, giở nắp ra, tiếp tục “dần trên lửa “ Bánh chín có màu vàng như mặt trăng rằm. Trên đó, màu đỏ của tôm, màu xanh của hành, màu nâu hoặc trắng của nấm. mùi thơm dậy của nước dừa và hột gà khiến cho chiếc bánh hấp dẫn đặc biệt. Bánh được xếp lại theo hình rẻ quạt, nóng hôi hổi trên chiếc mâm lót lá chuối hay trên chiếc đĩa sứ trắng ngà.

Ăn bánh xèo nên dùng tay, không cần đũa nĩa gì cả. Dùng tay để cuốn bánh cho gọn và cảm nhận được độ nóng ấm của bánh mới thấy ngon miệng. Ăn bánh nên uống với nước trà nóng hoặc với bia, rượu mới tiêu được mỡ dầu. Vừa ăn vừa đàm đạo chuyện trò, lúc đói bụng có người dám ăn cả chục bánh, có người ăn trừ cơm cả ngày.

Ở Huế cũng có loại bánh tương tự nhưng bánh nhỏ hơn, độ giòn và vị béo kém hơn, có lẽ họ không thích nước cốt dừa như người Nam bộ. Thành phố Hồ Chí Minh có những con đường bày bán bánh xèo sát ngay đại lộ. Một vài địa điểm có tiếng như bánh xèo A Phủ, Đinh Công Tráng với giá từ hai chục ngàn đồng đến ba, bốn chục ngàn đồng một bánh nhưng bánh của các nơi này dùng quá nhiều thịt, mỡ nên ăn không được nhiều.

Màu sắc đẹp, mùi vị hấp dẫn, chất dinh dưỡng cao, bánh xèo là món bánh độc đáo, đậm đà hương vị Nam bộ.

Ẩm thực Việt Nam mùa nào thức nấy, luôn nổi tiếng bởi sự phong phú, đậm vị cỏ cây đồng nội. Bánh xèo là một trong số đó.

Bánh xèo là một loại bánh phổ biến ở các nước Á Đông nhất là Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên… Tuy cùng làm từ gạo, xong mỗi quốc gia lại có cách làm bánh xèo riêng, hình dáng và cách thưởng thức riêng. Bánh xèo Triều Tiên gồm một lớp bột bên ngoài, bên trong có nhân gồm tôm, thịt, giá đỗ, kim chi, khoai tây, hẹ… Bánh xèo Nhật Bản lại là nhân tùy ý, tức là tùy sở thích để cho vào nhân. Bánh xèo thường được nặn nhúm lại thành hình tròn hoặc gấp lại thành hình bán nguyệt rồi rán vàng.

Ở Việt Nam, mỗi vùng miền bánh xèo lại có tên gọi khác nhau và cách chế biến cũng rất khác nhau, nhưng chủ yếu là chia làm hai kiểu: bánh xèo giòn và bánh xèo dai. Miền Bắc và miền Trung, bánh xèo khá nhỏ, còn miền Nam làm bánh xèo cỡ lớn hơn. Bánh xèo có nguồn gốc ra đời hết sức giản dị đúng như cái tên của nó. Khi lớp bột vàng đổ vào chảo dầu nóng sẽ phát ra tiếng “xèo xèo”, nên nó được gọi với cái tên bánh xèo.

Ở miền Tây, có loại bánh xèo vỏ gốc gác từ đồng bào Khmer Nam Bộ, thường không có nhân. Ở Huế, bánh xèo thường gọi là bánh “khoái”, có cho thêm trứng. bánh xèo Phan Thiết chỉ bằng cái chén nhỏ, khi ăn rim chìm trong nước chấm. Ở Sài Gòn có loại “bánh xèo hoa sen” là sự kết hợp nguyên liệu truyền thống cùng hạt sen, ngó sen, củ sen… Nhiều loại bánh xèo nổi tiếng như bánh xèo A Phủ, bánh xèo Đinh Công Tráng cũng có hương vị riêng đặc trưng không lẫn với các loại khác.

Để làm ra những chiếc bánh xèo truyền thống cũng không quá. Gạo ngon đem ngâm nước qua đêm cho nở sau đó đem xay nhuyễn thành bột. Thông thường, người dân sẽ dùng máy xay thay vì cối xay đá như ngày xưa để tiết kiệm thời gian và công sức. Nếu muốn rút ngắn giai đoạn, bạn có thể mua một số loại bột bánh xèo xay sẵn. Có thể xay cùng chút nghệ tươi để tạo cho bánh có màu vàng hoặc sử dụng nước màu dừa để tạo màu nâu vàng đẹp mắt. Tiếp đến, cho nước cốt dừa nạo nhuyễn vào hỗn hợp với bột đã xay xong, để bột nghỉ chừng nửa tiếng, rồi thêm ít hành lá cắt nhỏ vào hỗn hợp bột, trộn đều. Phần nhân bánh thường gồm thịt ba chỉ, tôm, giá… ướp với chút muối, gia vị. Khi chiên nên dùng chảo to để chiên bánh. Múc từng muỗng bột đổ vào chảo dầu đã sôi già, sau đó nghiêng chảo sao cho bột tráng dàn đều thành một hình tròn. Đậy nắp lại đến khi bột hơi chín thì mở ra, cho nhân vào giữa vỏ bánh, gấp bánh lại, tiếp tục đậy nắp lần nữa. Sau vài giây là bánh đã chín giòn, thơm phức.

Bánh xèo thường có nước chấm và rau sống ăn kèm. Nước chấm bánh xèo làm từ nước mắm ngon pha với nước dùng, chanh, đường, cà rốt thái nhuyễn, ớt, tiêu… Các loại rau ăn kèm với bánh xèo cũng rất đa dạng gồm rau diếp, cải xanh, tía tô, húng, quế, lá chiết, quả chua…

Không chỉ là hương vị, bánh xèo còn hấp dẫn thực khách ở chỗ cách ăn. Ăn bánh xèo chuẩn điệu phải là phải dùng tay cầm chiếc bánh lên gói lại bằng lá rau sống rồi chấm nước mắm chua ngọt. Thế rồi, cứ ngồi vừa nhâm nha nhai miếng bánh vừa tận hưởng cái hồn quê đang tan hòa trên đầu lưỡi.

Bánh xèo giàu năng lượng và chứa nhiều các chất khác rất có lợi cho sức khỏe. Bánh xèo thích hợp nhất là ăn vào thời tiết lạnh và ngon nhất khi ăn nóng. Đây là món ăn ưa thích không chỉ riêng đối với người Việt mà cả du khách quốc tế. Du khách từ mọi nơi về thăm Việt Nam không quên thử miếng bánh xèo nóng hổi, đậm đà hương sắc đồng nội.

Ngày nay, ẩm thực trở nên vô cùng đa dạng, từ món Âu, món Á… nhưng bánh xèo vẫn có một vị trí không thể nào thay đổi với mỗi người Việt Nam và cả trong tinh hoa ẩm thực dân tộc.

Có thể nói được rằng trong biết bao các món bánh mặn của Nam bộ, bánh xèo là món phổ biến, được người ăn ưa thích nhất và nó như trở thành một món ăn đặc trưng cho con người nơi đây.

Quả thật nếu như chúng ta ăn bánh xèo có đông người mới vui. Ngay cả công đoạn để có thể làm ra những chiếc bánh này cũng đã rất cầu kỳ và cũng cần phải trải qua rất nhiều công đoạn. Nên việc nhiều người làm và cũng ăn thì chắc chắn sẽ vui biết bao nhiêu. Nào là phải trải qua được các công đoạn như xay bột nấu bột, nhân bánh, nước chấm,…

Nếu như chúng ta mà muốn làm cho chiếc bánh trở lên ngon lành thì chắc chắn cũng phải chịu khó, chịu cực một chút. Ta cũng rất dễ có thể nhận thấy được rằng phần bột bánh là phần quan trọng nhất. Và cũng không sai khi ta nói được rằng bánh có ngon không chính là do phần bột bánh đó. Những người làm bánh chuyên thì chắc chắn rằng họ sẽ không chịu loại bột gạo vô bịch sẵn, bày bán ở chợ vì đó là gạo đã bẩn rồi. Còn đến khi cho gạo vào ngâm nước cho bã ra. Người ta cũng phải như té rất nhiều nước rồi gạn lấy bột nên chất bột bị chua và lạ lúc này đây gạo lại không còn bổ dưỡng, thơm ngon nữa. Mà nếu như chúng ta mà muốn cho bột bánh xèo ngon phải là loại gạo thơm, gạo mới. Những hạt gạo này chúng ta cũng phải ngâm trong một buổi hoặc một đêm rồi đem xay nhuyễn. Ngày nay, chúng ta cũng thấy được rằng khi có bột bánh xèo pha chế sẵn cũng tiện dụng nhưng phải trộn thêm theo công thức, và thế ta cũng thấy được để có một bịch bột bánh xèo pha thêm một bịch bột chiên giòn hoặc cùng với đó cũng chính là bột bắp và nước cốt dừa thì bánh mới béo giòn thơm ngon được.

Nếu như chúng ta mà dùng bột gạo tươi thì sau khi lược bột xong, pha thêm một bịch bột chiên giòn, thêm vào đó chính là nước cốt dừa, đường, muối sao cho độ béo ngọt như thế nào thì lại phải tùy thuộc và khẩu vị người ăn. Không chỉ thế thôi, người nấu cũng phải biết bỏ thêm hành lá xắt nhỏ, bột nghệ, trứng gà đánh nhuyễn. Nói thêm món bánh xèo chuẩn chất Nam Bộ thì nên cho nhiều nước cốt dừa nó sẽ béo ngậy và thơm ngon dậy mùi rất lớn.

Một phần quan trọng hơn nữa không thể thiếu đó chính là phần nhân bánh muốn ngon phải có nấm rơm, và cũng có cả nấm hương, nấm kim chi hay nấm đông cô thơm nữa. Không thể thiếu thì những con tôm hoặc tép, thịt gà hay thịt vịt băm nhuyễn, cho đến giá sống và củ sắn cũng được cho vào trong bánh xèo. Chưa hết ta như thấy được rằng lại có người còn bỏ cá cơm dừa xắt sợi, hoặc đậu xanh nấu chín. Điều có thể nhận ra được rằng nếu như mà cho quá nhiều gia vị như đậu xanh và dừa thì mang lại cảm giác ngán ngẩm khó có thể nuốt được. Ta cũng cần đặc biệt chú ý đó chính là nấm trong bánh có thể thay đổi theo từng mùa, màu nào thì nấm đó. Mùa nấm rơm thì cho nấm rơm, không có thì cho mộc nhĩ cũng được.

Thế rồi không thể không nói đến rau sống và nước mắm là những thành phần quan trọng làm cho bánh thêm ngon. Đặc biệt hơn ta như thấy được rau sống phải có đủ họ tộc có thể kể đến đó chính là các loại rau như diếp cá, xà lách, tần ô, húng cây, húng lủi, quế. Và người chế biến cũng như người ăn phải lưu ý đó chính là không được thiếu lá cách và cải bẹ xanh. Và quan trọng đó chính là nước mắm chua ngọt để ăn kèm được pha mắm, đường, tỏi ớt và chanh theo tỷ lệ nhất định mới làm món bánh xèo ngon được.

Khi tất cả mọi thứ chuẩn bị đã xong thì ta bắt đầu vào công đoạn rán bánh xèo. Bánh xèo rán phải khéo thì mới có thể dậy mùi được. Khi chảo thật nóng thì đổ thử một vài cái xem mùi vị và độ đặc lỏng của bột vừa hay chưa, sau đó mới đổ thật sự.

Lưu ý đặc biệt nữa đó chính là người ta ăn bánh xèo nên dùng tay, đồng thời người ta ăn cũng không cần đũa gì cả. Dùng tay để có thể cuốn bánh cho gọn và cảm nhận được độ nóng ấm của bánh mới thấy ngon miệng.

Màu sắc đẹp kết hợp với mùi vị hấp dẫn, chất dinh dưỡng cao bổ dưỡng thì bánh xèo thực sự chính là món bánh độc đáo, đậm đà hương vị Nam bộ.

Bánh xèo là một trong những món ăn đậm đà hương vị miền Nam. Đây là loại bánh vừa rẻ vừa ngon, được người bình dân ưa chuộng. Có thể nói bánh xèo hiện diện khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long rộng lớn. Giờ đây, nó đã thành món ăn quen thuộc đối với người dân thành phố và bước đầu chiếm được cảm tình của du khách nước ngoài.

Nguyên liệu chính để làm bánh xèo là bột gạo xay nhuyễn pha với nước cốt dừa và bột nghệ. Ngoài ra còn có thịt heo, tôm tươi, giá đỗ, đậu xanh hấp chín…

Các loại rau ăn kèm gồm có xà lách, cải bẹ xanh, rau thơm các loại. Nước chấm được pha bằng nước mắm ngon, ớt tỏi giã nhuyễn, chanh, đường cát trắng, bột ngọt cùng với đồ chua là củ cải, cà rốt xắt nhỏ ngâm dấm.

Bánh được tráng trong chiếc chảo sâu lòng đặt trên bếp than hồng. Người tráng múc bột đổ vào chảo nóng đã thoa dầu (hoặc mỡ), nhanh tay láng bột rộng ra sao cho ngoài mỏng, trong dày. Xếp thịt heo luộc xắt mỏng, tôm hay tép bạc, đậu xanh đãi sạch vỏ hấp chín và giá sống lên trên. Khi bánh chín giòn thì gập chiếc bánh làm đôi, xúc ra đĩa. Mỗi đĩa để ba, bốn cái xếp liền nhau. Đĩa bánh xèo vàng tươi, thơm phức đặt lên bàn cùng với đĩa rau sống xanh mướt và chén nước chấm màu ớt đỏ tươi trông vô cùng hấp dẫn.

Cách ăn bánh xèo của người Nam Bộ thể hiện rất rõ phong thái tự nhiên, phóng khoáng. Dùng tay xé một miếng bánh xèo nóng hổi đặt vào lá cải, thêm xà lách, rau sống, cuốn chặt rồi chấm nước mắm pha đủ vị chua, cay, mặn, ngọt; thêm vài sợi cà rốt, củ cải, rồi vừa ăn vừa xuýt xoa khen ngon quá! Điều đặc biệt của bánh xèo là càng đông người ăn càng cảm thấy ngon. Lúc nông nhàn hay những ngày mưa gió, cả nhà quây quần bên bếp lửa. Bánh tráng đến đâu ăn đến đấy, vừa ăn vừa chuyện trò rôm rả, thú vị vô cùng!

Giờ đây, bánh xèo gốc gác miền Tây đã có mặt ở Sài Gòn, Hà Nội. Tối tối, các quán bánh xèo đông nghịt khách. Vợ chồng, con cái, anh em, bè bạn mời nhau, đãi nhau một bữa bánh xèo. Trong không khí vui vẻ, nhộn nhịp, hương vị đặc biệt của món ăn dân dã này tưởng chừng như tăng lên gấp bội.

Bánh xèo đã có ở miền Nam tự thuở nào chẳng ai nhớ được. Có lẽ nó đã có từ trước thời phở Bắc vào Nam hay bánh mì Sài Gòn bắt đầu có mặt từ những năm 40 – 50 thế kỷ trước. Ngày xưa ở chợ, khu xóm, từ thành thị đến thôn quê miền Nam thế nào cũng có hàng bánh xèo như một món ăn bình dân phổ biến mà ai cũng biết.

Đầu thập niên 80, với những khó khăn của đất nước sau chiến tranh, hàng quán ở Sài Gòn giảm đáng kể, trong đó có cả những hàng bán bánh xèo. Nhưng đến giữa thập niên 80, đột ngột trên những đoạn đường nhiều người qua lại, xuất hiện một số quán bán một thứ bánh chiên bằng bột có màu vàng như bánh xèo.

Tuy nhiên khuôn đổ bánh chỉ nhỏ bằng khuôn đổ bánh khoái, nhân bao gồm tép, thịt ba rọi, giá, củ hành như bánh xèo và nước chấm là nước mắm chứ không phải bằng nhân và nước chấm của bánh khoái. Đa số người bán là người miền Trung, thế nên món bánh được đặt tên là “bánh xèo miền Trung”. Bánh xèo miền Trung chiếm được cảm tình của nhiều người thành phố lúc bấy giờ vì sự hấp dẫn riêng của mình: độ nóng giòn vừa phải, ăn với nhiều rau và nước mắm, ngon miệng…

Từ thập niên 90 trở đi bánh xèo Nam bộ bắt đầu khởi sắc trở lại với những nơi bán có tiếng như bánh xèo Đinh Công Tráng – Q.1, Ngô Quyền – Q.5, A Phủ. Và đến năm 2007, bánh xèo Ăn Là Ghiền xuất hiện với quy mô lớn, bài bản, chuyên nghiệp hơn nhằm giới thiệu cho công chúng món bánh xèo miền Tây và những món ăn dân dã Việt Nam. Sau đó một năm, bánh xèo Mười Xiềm của Cần Thơ cũng góp mặt tại thành phố. Vậy là bánh xèo Việt Nam bắt đầu sánh vai cùng các thương hiệu bánh crêpe Pháp, pizza Ý, bánh xèo Nhật, bánh roti pum Ấn Độ, bánh tasco Mexico…

Ăn nóng là điều bắt buộc với chiếc bánh xèo nên khi bánh vừa lấy ra khỏi chảo là phải đến ngay tay người ăn. Tiếng “xèo xèo!” của bột chiên trên lửa, những làn khói bốc lên như còn vương vấn trên mặt bánh vàng ươm. Bánh bột gạo chiên ấy được gọi tên là “bánh xèo”, rất dân dã và gần gũi với mọi người Việt. Bánh xèo hiện nay do có thêm phiên bản mới giữa bánh xèo miền Nam và bánh khoái miền Trung nên được tạm coi là có hai loại, khác nhau chủ yếu ở kích thước. Nếu chiếc bánh xèo miền Trung nằm gọn trong lòng chiếc chảo nhỏ, đường kính khoảng 10 – 15cm, trông dày dặn và giòn rụm thì bánh xèo miền Nam kích thước bằng cái chảo lớn, bột đổ thật khéo để tạo lớp rìa mỏng tang và giòn xốp, ít ngậm dầu như bánh xèo miền Trung.

Vẫn với tép tươi, thịt ba rọi, giá sống, củ hành, phần nhân bánh ở miền Nam có thêm đậu xanh nên béo và bùi hơn. Tuỳ theo mùa, bánh xèo miền Nam có thể thêm vào nấm mối, kim châm, nấm tràm, cổ hũ dừa, bông điên điển… Thời gian qua, các thương hiệu bánh xèo nổi tiếng như Ăn Là Ghiền, Mười Xiềm đã mạnh dạn cải tiến nên bánh xèo đã có nhiều loại nhân khác nhau giúp chiếc bánh xèo trở nên đa dạng, phong phú hơn.

Bánh xèo có cách ăn đặc trưng, đó là ăn bằng tay. Bánh vừa lấy ra khỏi chảo còn nóng hôi hổi, tay xé một miếng vỏ vàng ruộm, thêm đầy đủ nhân, cuốn thành cuộn dày cộp toàn những rau là rau, từ cải bẹ xanh, cải xà lách và năm, sáu thứ rau thơm. Tai nghe được tiếng bột “xèo” trên mặt chảo nóng, nghe tiếng rôm rốp giòn tan khi bẻ và nhai bánh. Mũi ngửi hương thơm lựng. Mắt nhìn được đủ sắc màu vàng óng của bánh, xanh mượt mà của rau và đỏ au của nước mắm ớt. Cuộn miếng bánh xèo từ từ cho vào miệng, vị ngọt của bột hòa cùng vị ngọt của tép, thịt, vị béo của mỡ vừa được đưa đẩy chạm đến ngưỡng của đô ngậy. Tức khắc mùi vị the nhẩm của cải bẹ xanh, thơm nồng của rau thơm hòa quyện đưa vị béo bay biến đi. Bao nhiêu hương vị mặn, ngọt, chua, cay như thay nhau đánh thức toàn bộ vị giác của người thưởng thức.

Không gì khoái khẩu cho bằng được thưởng thức món ăn đơn sơ mà tinh tế đến tuyệt vời. Bánh xèo được chọn lựa để trở thành một món ăn độc đáo, đại diện cho những món ăn Việt trong cuộc bình chọn “TP.HCM – 100 điều thú vị” lần này đã giới thiệu thêm kho tàng ẩm thực Việt còn nhiều lắm những món ăn thú vị.

Bánh xèo có từ rất lâu, không biết nó xuất xứ từ đâu, nhưng bánh xèo hiện nay có mặc ở rất nhiều nơi trên đất nước và ở thế giới nữa. Bánh xèo là một món ăn dân dã, bình dị nhưng bánh xèo nó mang một cái gì đó rất riêng cho dân tộc ta.

Bánh xèo thường hay được mọi người làm bán vào mùa mưa, có lẽ nó ăn rất ấm bụng nên mọi ngoài rất thích. Bánh xèo có nhiều vùng làm khác nhau. Ở miền tây thì bánh xèo được làm rất to, miền trung thì vừa và miền bắc thì hơi nhỏ một tí. Mỗi nơi chọn nguyên liệu giống nhau đều là bột gạo nhưng nhân và gia vị thì khác nhau. Gia vị nó tượng trưng cho mỗi vùng miền. Nhưng có vùng thì làm bằng tôm thịt bò, thịt heo nạc… có vùng thì làm nấm và giá công với một tí thịt rất ngon.

Ở mỗi vùng với mỗi gia vị nó tượng trưng tính vùng miền và thể hiện được những nét đặc sắc văn hóa của họ. Phải chăng đó là cái sở thích của mỗi vùng không phải mà nó chính là nền văn hóa lịch sử của họ.

Để làm được một chiếc bánh xèo không phải đơn giản tí nào, đó là cả một nghệ thuật. Cách gia bột, trộn bột rất quan trọng nó có thể làm bánh ngon hay dở thế nào đều phụ thuộc vào nó. Ta có thể dùng thêm các nguyên liệu khác như nước cốt dừa để lấy khuấy bột. Nước dừa này dùng để pha bột nhằm làm tăng độ béo cho bánh. Ta cho khoảng 1 lít nước ấm vào 0,5 kg dừa khô đã nạo, nhào trộn và vắt, lược lấy phần nước cốt để riêng, sau đó cho thêm nước vào phần xác dừa, tiếp tục vắt lấy nước nhì và nước ba.

Bước tiếp theo ta khuấy đều bột gạo với một ít nước ấm và tất cả nước dừa ở trên, cho thêm hành lá cắt nhuyễn và bột nghệ để tạo màu vàng đặc trưng cho bánh. Bổ sung thêm gia vị như muối, đường, bột ngọt. Cũng có thể cho thêm trứng gà đã đánh nhuyễn vào bột để bánh giòn và nở hơn hay bổ sung bột mì để tăng độ giòn của bánh.

Nhưng tùy theo sở thích của mỗi người. tôm bóc vỏ để ráo, thịt thái mỏng và ướt gia vị. Sau đó ta sào sơ qua cho thịt và tôm săn lại, vừa chín tới. bên cạnh đó ta có thể cho thêm giá, nấm rửa để ráo. Tí khi làm bánh, ta cho cho vào lên trên bột.

Ăn kèm với bánh gồm có rau sống và nước chấm. Hai món ăn kèm này cũng phải chuẩn bị chu đáo qua việc sơ chế nó. Nước chấm thì ta cho tỏi tươi và ớt được bằm thật nhuyễn, cho vào nước ấm. Thêm đường, nước chanh (hay giấm) và khuấy đều, sau đó cho từ từ nước mắm vào, nêm nếm vừa ăn. Nước chấm ngon cho bánh xèo phải có vị mặn vừa phải của nước mắm hài hòa với vị chua của chanh và vị ngọt của đường. Rau sống gồm có nhiều loại và tùy sở thích của từng người, mà ta nên chọn các loại rau sau: xà lách, rau thơm, diếp cá, cải xanh, lá lốt, đọt bằng lăng, đọt xoài, sôi nhái. Rau phải được rửa sạch, để ráo và xếp ra mâm. Rau nên ngâm trong nước có muối với nồng độ loãng và ngâm trong thời gian ngắn khoảng 3-5 phút để hạn chế các nguy cơ vi sinh vật.

Cách đổ cũng không khó. Ta chỉ cần bắt chảo nóng, cho dầu vào sôi lên ta cho bột vào vào cho nhân cộng với ít giá và nấm vào úp vung lại để khoảng 2 3 phút ta lấy ra và làm tiếp cá khác. Nếu muốn bánh giòn hơn thì ta để khoảng 5 phút và lấy ra. Cái quan trọng để có chiếc bánh xèo ngon đó là nguyên liệu và cách pha bột.

Một cái bánh xèo cung cấp năng lượng trung bình khoảng 300-350 kcal với sự có mặt đầy đủ các thành phần dinh dưỡng khác nhau từ nguyên liệu chế biến (tinh bột, đạm, chất béo).

Bánh xèo rất hấp dẫn thực khách bởi cách ăn của nó. Ăn bánh xèo đúng điệu phải là phải dùng tay để gói. Trải những chiếc lá non lên bàn tay, bỏ vào một chút bánh kèm nhân, cuộn lại chấm nước mắm chanh, tỏi, ớt… cứ nhẩn nha nhai mà tận hưởng cái mùi vị của cây trái vườn nhà. Bánh xèo Nam bộ được ăn với gần 20 loại rau khác nhau. Nhìn chung các loại rau ăn với bánh xèo tương đối giàu carotene, vitamin C, muối khoáng, có loại rau còn chứa một số vị thuốc tốt cho cơ thể. Ăn bữa bánh xèo thơm ngon không những được thưởng thức hương vị ngon, tươi của các loại rau, mà còn tạo điều kiện cho cơ thể tiếp nhận các chất dinh dưỡng qua các loại rau đó.

Vượt ra khỏi biên giới quốc gia, bánh xèo đã được mang đi giới thiệu ở rất nhiều nơi trên thế giới và đã được ưa thích. Trong các buổi tổ chức giới thiệu văn hóa Việt Nam ở Mỹ và các quốc gia khác trên thế giới, bánh xèo Nam bộ là một trong những món ăn gây nhiều ấn tượng với thực khách.

Bánh xèo Nam bộ được chế biến từ bột gạo, nước cốt dừa, tôm, thịt… đặc biệt hấp dẫn thực khách bằng cách thêm giá, củ sắn, bông điên điển, bông thiên lý hay bông so đũa… làm nhân bánh.

Ăn bữa bánh xèo thơm ngon không những bạn được thưởng thức hương vị ngon, tươi của các loại rau, mà còn tạo điều kiện cho cơ thể có khả năng tiếp nhận các vị thuốc tốt qua các loại rau đó. Kim thất thì thơm như tía tô, có nhiều tinh dầu, bổ máu; cát lồi giúp những người suy thận phục hồi chức năng; đọt vông giúp an thần, dễ ngủ…

Có mặt trong các loại rau ăn với bánh xèo còn có lá lốt có tác dụng giảm đau, đầy hơi, khó tiêu, trị nôn mửa… Rau diếp cá lại có tác dụng kháng khuẩn, điều trị mụn nhọt và thông đường tiểu tiện hoặc dùng cho phụ nữ kinh nguyệt không đều. Nghệ là thuốc thông mật, điều trị viêm gan, giảm viêm khớp và còn dùng để sản xuất thuốc làm hạ tỷ lệ cholesterol trong máu, điều trị viêm loét dạ dày…

Giá đậu xanh trong nhân bánh có nhiều chất dinh dưỡng như vitamin C và E, lượng calo thấp, dùng tốt cho người bị viêm thanh quản mất tiếng, mỏi cơ, người béo phì…. Hành tây cắt thành khoanh mỏng vừa tăng hương vị thơm ngon cho nhân bánh, vừa có tác dụng kích thích tiêu hóa, điều trị nhu động ruột kém, hoặc còn có tác dụng điều trị xơ mỡ động mạch và viêm họng…

Vượt ra khỏi biên giới quốc gia, bánh xèo đã được mang đi giới thiệu ở rất nhiều nơi trên thế giới và đã được rất nhiều người ưa thích không chỉ ở mùi vị đặc trưng của bánh mà còn giá trị dinh dưỡng cao ở những cái bánh xèo nóng hổi.

Trong các món bánh mặn của Nam bộ, bánh xèo là món phổ biến, được người ăn ưa thích nhất. Ăn bánh xèo có đông người mới vui. vì khi làm bánh phải qua nhiều công đoạn nên cần nhiều người. Người ta phân công nhau bằng những câu vè vui vẻ như: “Người nào xấu xấu xay bột, lật hành. Người nào lanh lanh băm nhân, rò bánh…”

Muốn cho bánh ngon pháả chịu khó, chịu cực một chút. Bột bánh là phần quan trọng nhất, bánh cỏ ngon hay không là ở khâu này. Dân nông thôn không chịu loại bột gạo vô bịch sẵn, bày bán ở chợ vì đó là gạo dơ, ngâm nước cho bã ra. te nhiêu nước rồi gạn lấy bột nên chất bột bị chua và lạt, không còn bổ dưỡng , thơm ngon. Muốn cho bột bánh xèo ngon phải là loại gạo thơm, gạo mới, ngâm trong một buổi hoặc một đêm rồi đem xay nhuyễn. Ngày nay có bột bánh xèo pha chế sẵn cũng tiện dụng nhưng phải trộn thêm theo công thức, một bịch bột bánh xèo pha thêm một bịch bột chiên giòn hoặc bột bắp và nước cốt dừa thì bánh mới béo giòn.

Dùng bột gạo tươi thì sau khi lược bột xong, pha thêm một bịch bột chiên giòn, nước cốt dừa, đường, muối sao cho độ béo ngọt theo dung khẩu vị người ăn, bỏ thêm hành lá xắt nhỏ, bột nghệ, trứng gà đánh nhuyễn. Người Nam bộ rất thích nước cốt dừa nên pha đậm đặc càng ngon (mà vị béo của nước cốt dừa không có vị béo nào sánh kịp), bánh khi chín có nước cốt dừa rất dễ lấy ra.

Nhân bánh muốn ngon phải có nấm rơm, nấm hương, nấm kim chi hay nấm đông cô, tôm hoặc tép, thịt gà hay thịt vịt băm nhuyễn, giá sống và củ sắn, có người còn bỏ cá cơm dừa xắt sợi, hoặc đậu xanh nấu chín, nhưng hai loại này làm cho dễ ngán không ăn được nhiều. Nấm làm nhân bánh có thể thay đổi theo từng mùa. Mùa nấm rơm thì làm nấm rơm, không có nấm rơm thi hải nấm mèo trên các cây so đũa hoặc mùa mưa thì có bông điên điển…

Rau sống và nước mắm là những thành phần quan trọng làm cho bánh thêm ngon. Rau sống phải có đủ họ tộc như: diếp cá, xà lách, tần ô, húng cây, húng lủi, quế. không được thiếu lá cách và cải bẹ xanh (loại cải thân nhỏ). Chén nước mắm nêm nếm cho đủ độ mặn, ngọt, chua, cỏ màu đỏ của ớt, màu vàng của nước mắm, màu xanh của xoài sống bằm nhuyễn và màu đỏ trắng của dưa của cải.

Khi tất cả vật liệu đã sẵn sàng thì người đổ bánh mới bắt đầu nổi lửa. Nếu lượng người ăn đông phải đổ hai chảo mới kịp đãi khách, ở miền quê, các bà nội trợ đổ bánh bằng chảo gang hay chảo bằng vỏ trái bom cắt ra, ở thành phố có loại chảo không dính tương đối tiện lợi. Khi chảo thật nóng thì đổ thử một vài cái xem mùi vị và độ đặc lỏng của bột vừa hay chưa, sau đó mới đổ thật sự.

Lấy miếng mỡ heo cắt hình vuông khoảng 3 em đảo qua chảo một lượt, bỏ tép hoặc tôm và thịt ba rọi xắt sợi nhỏ vào cháo, đảo cho đỏ lên hồng lên, tiếp đó đổ một vá hột lên chảo nghe xèo xèo rồi tráng đều cho tròn cái bánh mới khéo, lần lượt bỏ nấm, thịt gà, giá, củ sắn và đậy nắp lại. Hai phút sau, giở nắp ra, tiếp tục “dần trên lửa “ Bánh chín có màu vàng như mặt trăng rằm. Trên đó, màu đỏ của tôm, màu xanh của hành, màu nâu hoặc trắng của nấm. mùi thơm dậy của nước dừa và hột gà khiến cho chiếc bánh hấp dẫn đặc biệt. Bánh được xếp lại theo hình rẻ quạt, nóng hôi hổi trên chiếc mâm lót lá chuối hay trên chiếc đĩa sứ trắng ngà.

Advertisement

Ăn bánh xèo nên dùng tay, không cần đũa nĩa gì cả. Dùng tay để cuốn bánh cho gọn và cảm nhận được độ nóng ấm của bánh mới thấy ngon miệng. Ăn bánh nên uống với nước trà nóng hoặc với bia, rượu mới tiêu được mỡ dầu. Vừa ăn. vừa đàm đạo chuyện trò, lúc đói bụng có người dám ăn cà chục bánh, có người ăn trừ cơm cả ngày.

Ở Huế cùng có loại bánh tương tự nhưng bánh nhỏ hơn, độ giòn và vị béo kém hơn, có lẽ họ không thích nước cốt dừa như người Nam bộ.

Thành phố Hồ Chí Minh có những con dượng bày bán bánh xèo sát ngay đại lộ Một vài địa điểm có tiếng như bánh xèo A Phủ, Đinh Công Tráng với giá từ hai chục ngàn đồng đến ba, bốn chục ngàn đồng một bánh nhưng bánh của các nơi này dùng quá nhiều thịt, mỡ nên ăn không được nhiều.

Màu sắc đẹp, mùi vị hấp dẫn, chất dinh dưỡng cao. Bánh xèo là món bánh độc đáo, đậm đà hương vị Nam bộ.

Bánh xèo là một loại bánh Việt Nam, có bột bên ngoài, bên trong có nhân là tôm, thịt, giá đỗ, được rán màu vàng, nặn hình tròn hoặc bán nguyệt. Tuỳ theo từng địa phương tại Việt Nam mà bánh được thưởng thức với nét đặc trưng riêng. Thường có 2 phong cách: đổ bánh xèo giòn và bánh xèo dai.

Cách làm bánh: Đầu tiên, đậu xanh ngâm nước nóng ấm khoảng 1 tiếng cho bóc vỏ. Đãi vỏ sạch, hấp/luộc chín sao cho đậu vẫn còn nguyên dạng hạt, không bị bể. Giá rửa sạch để ráo. Hành lá rửa sạch cắt nhỏ.

Tôm lột vỏ, làm sạch đường chỉ. Ướp tôm thịt với một tí xíu muối, tiêu, tỏi ép nhỏ khoảng nửa tiếng cho ngấm gia vị. Cho bột gạo, bột bắp, muối, bột nghệ và nước soda vào trộn đều. Cho hành lá vào. Bỏ hỗn hợp vào tủ lạnh khoảng nửa tiếng trước khi làm.

Cách chiên bánh cũng phải tài tình mới ngon: Chảo nóng, cho một ít dầu vào. Dầu nóng, cho ít lát thịt heo và vài ba con tôm vào xào chín tái, thơm. Dùng vá tròn to( loại múc canh) múc một vá hỗn hợp bột bánh xèo (4) đổ tròn vào chảo. Vừa đổ vừa quay cán chảo cho bột chạy dàn đều một lớp mỏng khắp đáy chảo.

Rắc một ít đậu xanh đều lên bề mặt, cho giá vào phần nửa cái bánh. Đậy nắp lại, đợi khoảng 2~3 phút cho bánh chín vàng. Dùng vá dẹp bẻ gập bánh lại làm đôi. Lấy bánh ra.Cứ thế lập lại cho đến khi hết bột và tôm thịt rau.

Cách thưởng thức bánh: Khi ăn cuốn với rau xà lách hoặc cải cay và rau thơm, chấm với nước mắm pha chua ngọt. Pha nước chấm bánh xèo sao cho có đủ vị ngọt-chua-cay nhưng rất nhạt, nhạt đến độ có thể húp chén mắm như canh vậy. Tham khảo cách pha nước chấm ở đây. Tuy nhiên, phải gia giảm đường-nước và nước mắm sao cho thoả điều kiện trên. Mình thường pha theo tỉ lệ gồm: 2 phần đường, 1 phần mắm và 4 phần nước.

Điều mang đến cho mọi người cảm giác thích thú và muốn thưởng thức món ăn này chính là vị ngọt thanh của chén nước mắm chấm bánh xèo lấy từ nước dừa tươi và đường (nếu không có dừa tươi thì dùng nước dừa tươi đóng lon/ hoặc không nữa thì phải dùng đường thay thế)- chua của chanh hoặc dấm -cay của ớt- thơm của tỏi. Nếu không có nước dừa thì phải dùng nước nấu sôi để nguội cũng được nhưng dĩ nhiên là chất lượng sẽ thay đổi.

Tại Huế, món ăn này thường được gọi là bánh khoái và thường kèm với thịt nướng, nước chấm là nước lèo gồm tương, gan, lạc. Tuy nhiên, đối với món ăn này tại miền Nam Việt Nam, mọi người lại có công thức và cách chế biến hơi khác bánh có cho thêm trứng và người ta ăn bánh xèo chấm nước mắm chua ngọt. Tại miền Bắc Việt Nam, nhân bánh xèo ngoài các thành phần như các nơi khác còn thêm củ đậu thái mỏng hoặc khoai môn thái sợi.

Nếu có dịp, bạn hãy thưởng thức món ăn tuyệt vời này một lần trong đời. Nó không chỉ đơn giản là món ăn dân dã, món ăn hè phố. Mà hơn nữa, đó chính là ẩm thực, là văn hóa của người Việt.

Từ lâu bánh xèo đã trở thành loại bánh mang tính đặc trưng của vùng quê Việt Nam, đặc biệt ở miền Nam và miền Trung. Hiện nay bánh xèo rất nổi tiếng ở Việt Nam và cộng đồng người Việt trên khắp thế giới.

Bánh xèo là một món ăn dân dã, ra đời ở các vùng quê từ khá lâu. Không ai biết thời gian xuất hiện và thuộc miền xứ sở nào vì từ Huế trở vào phía Nam nơi nào cũng có.

Cái tên gọi “bánh xèo” cũng làm người ta nghĩ suy “có phải rằng tiếng xèo xèo khi đổ làm nên tên gọi của chiếc bánh”. Chiếc bánh ở từng vùng cũng khác nhau về kích cỡ và cách làm nhân: bánh xèo Huế, bánh xèo Phan Thiết thường nhỏ nhưng bánh xèo Nam Bộ lại khác hẳn, to và nhiều nhân. Nhất là ai đã về miền Tây Nam Bộ thưởng thức chiếc bánh xèo giòn rụm với đủ loại rau chắc khó thể nào quên.

Bánh xèo Nam Bộ thường thì mùa nào thức nấy, ngày thường bà nội trợ hay dùng giá hoặc củ sắn thái sợi cùng thịt ba chỉ, tép bạc làm nhân. Đến mùa mưa măng mọc, nấm mối rộ trong vườn, bánh xèo được thay nhân mới bằng măng tươi thái sợi, nấm mối xào ngon tuyệt cú mèo, đến mùa nước lên điên điển đơm bông, nhân bánh lại rực một màu vàng. Ngày nay trong các nhà hàng sang trọng bánh xèo được sáng tạo nên nhiều loại nhân khác nhau: nấm kim châm, hải sản, phi lê gà…cũng hấp dẫn không kém. Với chiếc bánh xèo đầy màu sắc lẫn mùi vị đó khi ăn lại được cuốn trong các loại rau xanh và chấm với nước mắm chua ngọt, trong có để cà rốt và củ cải trắng ngâm giấm. Rau xanh đủ loại, đủ thành phần từ trong vườn, dưới ruộng và cả ven sông: đọt lụa, lá cách, lá điều, đọt xoài, đọt cóc, đinh lăng, quế nước, xà lách, cải bẹ xanh, các loại rau thơm: tía tô, quế, húng lũi, húng cây…

Ðể được cái bánh xèo cho khéo là cả một nghệ thuật. Bánh có màu đặc trưng là sắc vàng của nghệ, thêm vị béo, hương thơm của nước cốt dừa, mép ngoài của bánh mỏng và giòn. Cái để lại dấu ấn cho bữa ăn bánh xèo chính là các loại lá để ăn với bánh. Từ cái vị chát chát, chua chua của đọt xoài non, bằng lăng, đến cái mùi hăng hăng của cải xanh, diếp cá, rau thơm…

Vượt ra khỏi biên giới quốc gia, bánh xèo đã được mang đi giới thiệu ở rất nhiều nơi trên thế giới và đã được rất nhiều người ưa thích không chỉ ở mùi vị đặc trưng của bánh mà còn giá trị dinh dưỡng cao ở những cái bánh xèo nóng hổi.

Món bánh xèo của người Miền Nam có từ rất lâu đời và là một món ăn vô cùng quen thuộc với người dân Nam Bộ nói riêng và người dân Việt Nam nói chung.

Chiếc bánh xèo thường được ăn vào mùa mưa giúp cho người ăn ấm bụng hơn. Bánh xèo của từng vùng thì có mùi vị hơi khác nhau một chút, những người dân miền tây thì bánh xèo thường được tráng khá to như một chiếc bánh đa. Người miền trung thì chiếc bánh xèo nhỏ hơn một chút và thường có vị cay hơn chiếc bánh xèo của người Miền Nam, còn người miền Bắc chiếc bánh xèo thường được cuộn tròn lại rồi cắt ra thành từng miếng nhỏ để người ăn có thể dễ dàng ăn từng miếng nhỏ.

Nguyên liệu làm thành chiếc bánh xèo khá cầu kỳ được tạo thành bột gạo nhưng mùi vị thì tùy vùng, gia vị có thể có vị cay mặn ngọt tùy theo sở thích ăn uống của từng miền. Nhưng đa số người ta thường làm bánh xèo nhân thịt bò, thịt lợn, hoặc nhân tôm, có nhiều nơi bánh xèo còn trộn thêm nấm, mộc nhĩ, giá đỗ nhiều hành tươi tạo nên mùi vị dễ ăn hơn.

Ở từng vùng miền khác nhau chiếc bánh xèo thường có mùi vị đặc trưng của vùng miền đó thể hiện được hương vị văn hóa của họ. Đồng thời cũng thể hiện được thói quen ăn uống của vùng miền. Người miền Nam thường thích ăn vị hơi cay và ngọt, người miền trung thì thường có nhiều loại gia vị đi kèm, rau thơm rau húng, người miền Bắc thì không thích ăn vị ngọt nhiều nên giảm đi vị ngọt, Khi ăn bánh xèo người ta thường cuộn với bánh tráng, kèm theo rau thơm tạo nên hương vị dễ ăn và không ngán. Để làm được một chiếc bánh xèo phải trải qua rất nhiều công đoạn nghệ thuật. Trong đó khâu tạo bột là quan trọng nhất, kết hợp nước cốt dừa để tạo nên bột tạo độ ngậy cho bánh xèo, nhân của bánh làm từ thịt xay, trộn với mộc nhĩ, nấm hương, tạo cho nhân thơm ngon và không bị béo. Khi làm nhân bánh người làm thường nêm nếm gia vị cho vưa miệng hoặc hơi nhạt một chút để khi ăn người ăn có thể chấm nước chấm.

Khách ăn bánh xèo đúng điệu, thường phải dùng tay gói, người ăn phải trải chiếc lá non trên tay rồi bỏ bánh xèo kết hợp với các loại rau sống cuộn tròn lại rồi chấm nước chấm được pha từ nước mắm, chan, tỏi, ớt, đường, tiêu… rồi cho vào miệng thưởng thức vị ngon của bánh.

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Cách Làm Diều Giấy 2 Dàn Ý &Amp; 8 Mẫu Thuyết Minh Về Một Phương Pháp Lớp 8

1. Mở bài

Giới thiệu về diều giấy và cách làm diều giấy

2. Thân bài

– Giới thiệu về nguồn gốc diều giấy

Diều giấy có nguồn gốc ở Trung Quốc

Chủ yếu xuất hiện ở các nước vùng Đông Nam Á

Ở Việt Nam diều giấy thường có mặt ở các vùng quê đồng bằng

– Giới thiệu cấu tạo của diều giấy

Diều giấy được làm chủ yếu bằng tre, hóp hoặc nứa và giấy

Diều gồm ba phần: đầu diều có thể đeo sáo hoặc không, thân diều làm bằng túi nhựa có dán giấy có thể có nhiều hình thù khác nhau, đuôi diều có thể có hoặc không.

Dây thả diều có thể bằng chỉ hoặc len, dây dù, dây cước

– Cách làm diều giấy:

Chọn tre làm khung diều

Đo túi nhựa nilon và cắt giấy làm áo diều

Đục sáo, làm đuôi

Lắp diều và thả diều

– Ý nghĩa của diều giấy

Thả diều là trò chơi dân gian thú vị

Thả diều là nét đẹp văn hóa dân gian của Việt Nam

3. Kết bài

Cảm nghĩ của em về chiếc diều giấy

I. Mở bài:

Giới thiệu về diều

II. Thân bài:

1. Lịch sử tạo ra con diều:

Thả diều có nguồn gốc vào thời cổ đại của người Trung Quốc cách đây 2800 năm.

Chiếc diều đầu tiên có thể đã xuất hiện vào thời kỳ Xuân Thu do người thợ nước Lỗ có tên Lỗ Ban dùng gỗ chế tạo thành

Chiếc diều nhờ gió để bay lên, nên diều có ý nghĩa như sự vương lên trong cuộc sống, bay cao bay xa như diều

2. Các hình dạng, hình thù của diều

Hình hộp

Hình vuông

Hình rồng

Hình chim

Hình người

3. Cách làm diều:

a. Chuẩn bị vật liệu làm diều:

Giấy A2, để làm diều giấy bạn nên dùng loại giấy khổ lớn, không nên sử dụng giấy nhỏ như A4, A5…

Thanh tre đã vót

Dây cước

Hồ dán

Thước, kéo

Dao rọc giấy

Bút chì

b. Làm diều:

Bước 1: cắt giấy theo hình mà bạn muốn

Bước 2: dán thanh tre đã vót lên giấy để cố định

Bước 3: Xong làm đuôi cho diều

Bước 4: trang trí diều

III. Kết bài: 

Con diều như biểu tượng cho truyền thống của dân tộc Việt Nam

Làm diều và thả diều là thú vui trong một ngày đẹp có gió nhẹ. Bạn có thể dễ dàng làm một con diều đơn giản chỉ trong một buổi chiều. Trước tiên là làm khung diều, sau đó, bạn đo và cắt áo diều theo hình con thoi. Bước cuối cùng là gắn thêm dây thả và đuôi diều để nó có thể bay tốt hơn. Bạn cũng có thể trang trí con diều sau khi hoàn thành để nó trông đẹp hơn trên bầu trời.

Bước đầu tiên là làm khung diều:

– Ráp các cây que với nhau để tạo thành hình chữ T thường. Đặt cây que 50cm ngang qua cây que 60cm để tạo thành hình chữ T thường. Hai cây que này sẽ tạo thành khung của con diều. Nếu bạn muốn làm một con diều lớn hơn thì dùng que dài hơn. Đảm bảo que ngang ngắn hơn que đứng tối thiểu 10cm.

– Cố định hai cây que với nhau bằng dây và keo. Quấn dây bện quanh giao điểm của hai cây que từ 1-2 vòng. Sau đó thắt nút sợi dây hay dây bện và dùng kéo cắt bỏ phần dây thừa. Bạn cũng có thể chấm một ít keo siêu dính vào giao điểm và ép chúng vào nhau để mối nối được chắc hơn.

Khi nối, bạn phải đảm bảo hai cây que vuông góc với nhau. Que ngang phải được định vị vuông góc với que đứng.

– Xẻ rãnh ở đầu mỗi que. Sử dụng kéo xẻ một cái rãnh ở đầu mỗi que. Các rãnh này phải nằm ngang qua bề rộng của que. Xẻ rãnh đủ sâu để sợi dây cột vào áo diều có thể lọt qua.

Nếu bạn dùng que rất mỏng và dây mảnh thì có thể xiên lỗ vào đầu các que thay vì xẻ rãnh.

– Kéo dây quanh khung diều. Quấn dây một vòng quanh rãnh trên đỉnh của khung diều. Sau đó kéo dây qua rãnh ở đầu bên phải của khung. Tiếp tục kéo dây qua rãnh ở đầu dưới của khung, và sau đó kéo dây qua đầu bên trái của khung. Cuối cùng quấn dây quanh rãnh trên đỉnh khung từ 1-2 vòng. Dùng kéo cắt bỏ phần dây thừa. Nhớ kéo dây căng nhưng không quá căng để tránh cho que không bị cong hay oằn. Sợi dây sẽ giúp khung diều giữ nguyên hình dạng khi bay trên trời.

Tiếp đến là đo và cắt áo diều:

– Sử dụng túi nhựa, giấy hoặc vải có bề rộng 1m để làm áo diều. Túi đựng rác loại lớn màu trắng là lựa chọn tốt nhất vì nó bền và dễ trang trí. Bạn có thể dùng giấy dán trang trí màu trắng hay giấy báo.

– Vải cũng có thể làm áo diều nếu bạn không có giấy hay túi nhựa, nhưng bạn nên dùng vải dày và cứng để tránh bị rách.

– Đặt khung lên áo diều. Banh rộng tấm vật liệu dùng làm áo diều trên mặt sàn, sau đó đặt khung diều vào chính giữa.

– Sử dụng thước để kẻ đường bao áo diều. Kê thước vào đỉnh của khung và đầu bên phải của que nằm ngang. Sử dụng bút bi hoặc bút chì kẻ một đường xiên theo thước từ đỉnh khung đến đầu bên phải que nằm ngang. Tương tự, bạn kê thước và kẻ từ đầu bên phải đến đầu dưới của que đứng, sau đó kẻ từ đầu dưới đến đầu bên trái que nằm ngang. Hoàn tất bằng cách kẻ một đường xiên từ đầu bên trái đến đỉnh khung. Bạn sẽ có một hình thoi trên tấm vải, với khung diều nằm chính giữa hình thoi đó.

– Cắt áo diều rộng hơn đường kẻ 5cm. Sử dụng kéo cắt hình thoi khỏi tấm vải, chừa một khoảng xung quanh đường kẻ để bạn có thể quấn áo diều vào khung dễ dàng. Bây giờ bạn đã có một cái áo diều hình thoi xinh đẹp, có thể khớp vừa khít vào khung diều.

Ráp các bộ phận của diều lại với nhau:

– Quấn mép áo diều lên trên khung, thoa keo và ép xuống. Thoa một lớp mỏng keo siêu dính vào khung và ép mép áo diều lên khung để giữ nó cố định. Bạn cũng có thể dùng băng keo hay băng keo điện để gắn áo diều vào khung, bằng cách dán mép áo diều vào mặt trong của nó. Đảm bảo áo diều dính chắc vào khung để tránh bị bung khi gió thổi.

– Gắn dây thả. Sử dụng dây dài tối thiểu 50cm làm dây thả diều. Dùng kéo đâm một lỗ nhỏ ngay bên trên nơi hai cây que giao nhau. Lỗ phải đủ rộng để bạn có thể luồn dây qua. Sau đó bạn kéo một đầu dây qua lỗ và cột chặt dây quanh giao điểm. Để dây rũ xuống tự do trong khi bạn hoàn thành phần còn lại của con diều. Sau đó bạn có thể cột thêm dây vào dây thả để nó dài hơn, tùy vào chiều dài cánh tay và chiều cao của bạn. Đôi khi việc cột thêm dây vào dây thả có thể giúp diều bay thẳng đứng hơn.

– Sử dụng đoạn dây dày dài khoảng 2m làm đuôi diều. Gắn đuôi diều vào đầu cuối của khung bằng cách quấn đuôi quanh khung nhiều vòng và thắt chặt. Sử dụng dây dày hay một dải vải làm đuôi diều. Chọn vật liệu làm đuôi diều có màu hợp với màu áo diều để con diều trông đẹp hơn khi bay.

– Gắn các dải ruy băng vào đuôi diều, mỗi dải cách nhau 30cm. Thắt các dải ruy băng dài 5-8cm vào đuôi diều và để chúng bay tự do trên đó. Các dải ruy băng sẽ giúp đuôi diều giữ thăng bằng và diều bay thẳng.

Trang trí cho diều thêm đẹp:

Trang trí cho diều bằng bút marker hay giấy màu. Sau khi ráp diều xong, bạn hãy dùng bút marker trang trí cho diều bằng những từ ngữ hay, khích lệ tinh thần. Bạn cũng có thể dùng bút marker tô màu cho diều với các hình dạng vui nhộn như đường sọc hay chấm. Thử cắt giấy màu thành các hình xoắn ốc, tam giác hay hình tròn để dán lên áo diều. Bạn cũng có thể viết tên mình lên diều để mọi người biết nó là của bạn và bạn có thể thấy tên mình bay trên bầu trời.

Cách thả diều:

Thả diều ở nơi không có cây cối và đường dây điện. Tìm một khu vực gần với hồ nước hay biển, vì những nơi này thường có gió mạnh để thả diều. Nắm chặt dây diều và chạy ngược hướng gió thổi. Sau đó bạn thả diều ra trong khi đang chạy để gió đẩy nó lên cao. Sử dụng dây thả để điều chỉnh con diều khi nó đang bay.

Có nhiều loại diều khác mà bạn có thể làm sau khi đã làm được diều hình thoi đơn giản, chẳng hạn diều hình tam giác, hình xe trượt tuyết và hình cơn lốc. Hãy tìm cách làm các loại diều này để bộ sưu tập diều của bạn thêm phong phú.

Chẳng biết có từ khi nào, nhưng những trò chơi dân gian cứ dần dần rồi dần dần trở thành những một phần không thể thiếu đối với tất cả những đứa trẻ không chỉ ở thôn quê mà còn ở thành thị. Những trò chơi dân gian gắn liền với tuổi thơ của mỗi chúng ta mà khi lớn lên, đi xa, chúng ta vẫn luôn nhớ về quê hương với những kỷ niệm đẹp đẽ tuyệt vời ấy. Trong những ký ức tuyệt đẹp ấy, có lẽ cánh diều là hình ảnh gắn liền với tuổi thơ của nhiều người nhất.

Trò chơi thả diều có nguồn gốc xuất phát từ Trung Hoa. Ông tổ của trò chơi thả diều là Lỗ Ban. Người Trung Hoa cổ xưa thường có tục lệ thả diều vào những ngày tiết thanh minh với quan niệm cánh diều có thể xua đuổi tà khí. Ban đầu, diều được làm từ gỗ, sau này nó được làm bằng tre nứa và bọc bằng giấy.

Thả diều ngày nay được xem như một trò chơi, nhưng ngày xưa, nó mang khá nhiều ý nghĩa. Diều được xem là một công cụ cầu an của những nhà sư. Diều còn được xem là vật dâng hiến lên đấng thần linh các trong các nghi lễ của vua chúa, quần thần vào dịp lễ lớn. Trong quân sự, diều còn được sử dụng như một công cụ dùng để truyền tin, Ngày nay, cánh diều mang ý nghĩa như một vật để con người ký gửi những ước mơ, hoài bão với hy vọng những ước mơ ấy sẽ theo cánh diều bay cao, bay xa đến một chân trời mới.

Hiện nay, diều được làm từ rất nhiều chất liệu khác nhau như bằng giấy, vải hay bằng nilon. Nhưng được ưa chuộng nhất là nilon bởi diều được làm bằng vật liệu này không những có thể bay dễ dàng bởi chất liệu nhẹ, mà còn làm ra được những màu sắc hình dạng rất đẹp và rất bền, có thể sử dụng được thời gian lâu. Màu sắc, hình dạng và kích thước của diều vô cùng đa dạng. Bạn có thể lựa chọn theo ý thích của mình. Diều truyền thông có dạng hình bầu dục, làm bằng giấy, nhưng càng ngày những mẫu mã diều đã đa dạng hơn: có diều hình dạng các con vật ngộ nghĩnh trong phim hoạt hình, có diều hình công, phượng,… với đủ các kích thước khác nhau.

Những loại diều sặc sỡ màu sắc được bày bán dành cho những người chơi không biết cách tự làm hoặc không khéo léo. Ưu điểm của những loại diều này ngoài tiện lợi và nhanh chóng chính là mẫu mã rất đẹp lại phong phú đa dạng. Nhưng đối với những đứa trẻ ở quê thì vẫn ưa chuộng chơi diều tự làm bằng giấy. Cảm giác tự tay làm chiếc diều mình yêu thích rồi thả chúng lên bầu trời tạo ra những kỷ niệm không ở đâu có được.

Loại diều giấy này không những được làm bằng những chất liệu sẵn có mà còn có ý nghĩa bảo vệ môi trường, khi mà vấn đề môi trường ngày càng nghiêm trọng. Các bạn có thể tận dụng tập giấy không còn sử dụng nữa để tạo ra chiếc diều cho riêng mình. Đối với những em nhỏ ở quê thì diều giấy không thể thiếu được khi mỗi mùa gió đến.

Thả diều là trò chơi dân gian sử dụng sức nâng của gió, bởi thế để thực hiện được trò này trước tiên chúng ta cần phải chọn được địa điểm thích hợp. Đó là một bãi đất rộng thoáng không có cây cối, dây điện hay nhà cửa và quan trọng là phải có gió nhẹ. Và chúng ta cũng đừng quên những người bạn để cùng nhau thả diều cùng nhau thì mới vui.

Những cánh diều thi nhau bay lên không trung sẽ tạo cho chúng ta những cảm giác sảng khoái không thể nào quên. Khi có gió thì một người cầm diều chạy ngược hướng gió một người thả dây hoặc chúng ta có thể tự làm cả hai việc đó được mà không cần ai khác. Khi thả diều ta chọn đúng hướng gió, khi có gió ta ta thả diều thật nhẹ cho thật cân.

Cánh diều thường có hình trăng hoặc hình lưỡi liềm được gọi là diều quạ. Khung diều thường được làm từ tre hoặc trúc. Giữa khung diều là một xương sống bằng tre cứng và to bản to, nhô ra hai bên cánh diều cong lên tạo thành khung diều hình lưỡi liềm.

Khung của chiếc diều phải thật cân đối và nhẹ thì diều mới có thể bay dễ dàng. Diều được phất bằng giấy bản, bôi hồ dán nhiều lớp. Sáo diều được tạo ra bằng cách xâu lại bằng một thanh tre đặt chéo góc ước chừng khoảng ba mươi độ với xương sống diều. Sáo thường làm bằng ống nứa, bao gồm hai khoang, đầu gắn nắp hình vòm xẻ rãnh để gió lùa vào tạo nên âm thanh. Diều sáo trông đơn giản nhưng chỉ những người khéo tay mới làm được.

Ngày trước, dây neo thường được người dân sử dụng dây mây, sợi dây nhỏ, đập dập rồi xoắn lại với nhau tạo thành dây neo. Chẳng may dây neo mà đứt, cánh diều theo gió cuốn xa, thật xa, mang theo cả niềm tiếc nuối của người thả diều. Sau này, cùng với sự phát triển của xã hội, dây dù và dây nilon được sử dụng để làm dây neo cho diều.

Ngày nay, trước sự phát triển của nhịp sống hiện đại, các nhà máy, các khu công nghiệp, dịch vụ thi nhau mọc lên. Những vùng trời thoáng đãng, lộng gió ở các vùng nông thôn đang dần bị thu hẹp, thú chơi thả diều cũng vì thế mà bị mai một. Chúng ta khó mà nhìn thấy hình ảnh cánh diều chao liệng trong một khung trời lộng gió trong những buổi chiều nắng nhàn nhạt nữa.

Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện giải trí hiện đại như: trò chơi điện tử, internet đã khiến cho không ít trẻ em không còn quan tâm với những cánh diều truyền thống. Song, hình ảnh cánh diều ngày xưa của tuổi thơ hồn nhiên đầy ước vọng của những đứa trẻ non nớt sẽ mãi vẹn nguyên trong tâm thức chẳng thể phai mờ.

Thả diều là một trò chơi đã cùng đi với chúng ta trong suốt những năm tháng trẻ thơ. Cánh diều được tôn vinh là một nét đẹp của đất nước khi nó được tạo ra hẳn một lễ hội riêng, đó là các lễ hội diều ở các thành phố biển như Nha Trang, Đà Nẵng, Vũng Tàu,… Dù xã hội ngày càng hiện đại kéo theo sự lu mờ của trò chơi này, nhưng cánh diều luôn là một biểu tượng đẹp đẽ mang theo những ước mơ, hy vọng và cả những kỷ niệm một thời ngây ngô khờ dại. Những ai đã từng nếm trải cảm giác tự tay chuốt tre, dán giấy, làm ra một chiếc diều và thả nó bay vút lên trời cao cùng với những chắc chắn sẽ hiểu cảm giác lâng lâng khó tả trong những buổi chiều ấy.

“Diều giấy” tên gọi thân thương gợi nhớ về những ký ức tuổi thơ của bao thế hệ trẻ em Việt Nam, những cánh diều đã gắn liền ngày tháng thơ ấu cùng nhau đi chăn trâu thả diều, chứng kiến sự lớn lên, bước đi trưởng thành của mỗi con người. Cánh diều mộc mạc đơn sơ nhưng lại mang giá trị to lớn về tinh thần, hồi nhỏ ai chẳng từng một lần làm chiếc diều giấy rồi viết những ước mơ hoài bão gửi gắm con diều mang ước mơ đó bay cao, bay xa.

Chẳng cần phải học qua trường lớp, chẳng ai mở lớp dạy làm diều giấy, cứ thế hệ đi trước truyền lại cho thế hệ đi sau, đứa trẻ này học đàn anh đàn chị hoặc những bạn bè trang lứa khác, thế là ai cũng biết làm diều giấy, ai cũng tự mình làm chiếc diều rồi đem thả mỗi chiều lộng gió. Diều giấy đã có từ rất lâu, nguồn gốc của diều giấy bắt nguồn từ Trung Quốc, từ thời cổ đại của người Trung Hoa đã có thú vui thả diều, chiếc diều đầu tiên được làm bằng gỗ vào thời kỳ Xuân Thu, đến thời nhà Hán thì xuất hiện diều giấy. Ngày nay diều giấy có mặt ở hầu hết các quốc gia Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, ta thường bắt gặp diều giấy ở những vùng quê nông thôn đồng bằng, duyên hải ven biển, ít thấy ở trong thành phố hay vùng miền núi. Một chiếc diều giấy có cấu tạo rất đơn giản, gồm phần khung được làm bằng que tre, nứa, hóp đã vót sẵn, cùng với túi nilon hoặc giấy làm áo diều. Tổng thể một chiếc diều chia làm ba bộ phận: đầu diều là chỗ đeo sáo diều, thân diều làm bằng túi nhựa có dán giấy có thể có nhiều hình thù khác nhau, và cuối cùng là đuôi diều. Dây dùng để thả diều phải có độ bền, dai nhất định nhưng cũng phải nhỏ và nhẹ, đa số thường dùng dây chỉ, dây dù hoặc dây cước để thả diều. Quá trình làm diều khá công phu và mất nhiều thời gian, nhất là công đoạn chặt tre, vót ve uốn thành khung diều. Tre vót phải đều, không quá nhỏ để khung diều được chắc chắn, cố định khi đối mặt với gió to, khi uốn khung cánh diều cũng phải tinh chỉnh sao cho các cánh của diều cân đối không bị lệch, có như vậy khi bay lên diều không bị chao đảo. Tiếp theo là đo, cắt và khâu áo diều, chọn áo diều bằng giấy hoặc nilon rồi đo bằng kích thước của khung diều, dùng chỉ khâu áo diều vào khung diều thật chắc chắn, có khâu chắc lớp áo diều mới cản gió tốt. Làm xong khung và áo diều là cơ bản xong một chiếc diều giấy, những phần phụ như sáo và đuôi có thể có hoặc không có, sáo diều làm bằng ống tre, trúc, có đục lỗ sao cho khi gió thổi sẽ phát ra âm thanh vi vu trầm bổng. Sau khi làm xong diều ta buộc dây diều vào vị trí mặt trong của diều, buộc dây vào trọng điểm của diều để giữ cân bằng diều khi thả. Người chơi diều giấy sẽ tận dụng sức gió để đưa diều lơ lửng lên không trung, diều bay càng cao thì càng đẹp và khó rơi xuống, những nơi lý tưởng nhất để thả diều là trên cánh đồng rộng rãi, bờ biển với điều kiện nhiều gió. Thú vui thả diều được cho là đem lại sự thư giãn, thoải mái, về phương diện văn hóa ở nhiều nước còn thả diều để xua đuổi điều xấu, cầu mong điều tốt, ví dụ như ở Thái Lan còn có lễ hội đấu diều, thả diều còn được coi như một nghi lễ để cầu mùa của người nông dân.

Diều giấy nói riêng và thả diều nói chung không đơn giản chỉ là thú vui tao nhã của trẻ thơ và mọi người mà hơn thế đó là nét đẹp trong văn hóa dân gian của Việt Nam, giá trị tinh thần đẹp đẽ của dân tộc, chúng ta phải cùng nhau gìn giữ và phát huy nét đẹp đó, phải làm sao để tuổi thơ của những đứa trẻ luôn có bóng dáng con diều, cánh diều vi vu.

Diều ở Đồng bằng Bắc Bộ chủ yếu là diều hình thuyền, hay còn gọi là diều trăng, kích thước rất khác nhau, nhỏ từ 1 m, to thì 3 đến 5m, cá biệt lên đến 8 m (cái này nếu gặp gió có thể nhấc bổng cả một đứa trẻ). Đầu vụ hè, tre hơi già (bắt đầu ngả màu vàng) được đốn, cây tre làm diều phải là cây vừa tầm, không quá cao vì những cây này thường mềm, và không quá thấp, và không được quá nhiều cành. Tre hạ xuống, được pha làm nhiều khúc tùy thuộc vào kích thước diều định làm, phơi trong nắng nhạt khoảng 5 – 7 nắng cho bớt nước là có thể chuốt được rồi.

Vót cọng diều là cả một quá trình, nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của con diều. Cọng nếu vót quá nhỏ, diều sẽ dễ lên nhưng nếu gặp gió cả sẽ bị chao. Nếu to quá, diều sẽ rất khó ăn gió. Cọng diều được vót thuôn nhỏ về hai đầu, dễ bắt gió nhưng vẫn đủ độ cứng khi gặp gió cả. Hai cọng diều không nhất thiết phải bằng nhau nhưng mỗi cọng bắt buộc phải đối xứng nhau. Để kiểm tra sự đối xứng của cọng diều người ta thường lấy một sợi dây không co giãn, kéo cọng theo một mức nhất định và quan sát.

Có những chuẩn mực nhất định khi lên khung: Chiều dài diều thường gấp 3 lần chiều ngang. Độ cong của diều thường phụ thuộc vào con mắt của người dựng nhưng thường vào khoảng 15 đến 20 độ. Khung diều phải cân nếu không diều sẽ bị chao.

Khung đã lên xong, bây giờ đến công đoạn phất diều, có nhiều chất liệu khác nhau có thể dùng để phất diều, phổ biến là giấy bản, hiện nay diều được phất chủ yếu bằng nilon. Diều phất phải vừa căng nhưng không được kéo khung, mép khâu phải đều cân xứng.

Buộc lèo là một công đoạn rất quan trọng. Độ dài của lèo được tính bằng hai lần chiều ngang diều tức là 2/3 chiều dài diều, mối nối giữa lèo và dây diều có thể điều chỉnh được để tuỳ thuộc vào gió và độ cao mong muốn mà chỉnh lèo. Sáo diều được làm từ ruột nứa hay cật tre đan phết sơn, lỗ sáo được khoét từ những loại gỗ nhẹ và không co giãn như gỗ mít.

Một bộ sáo thường có từ 3 đến 5 sáo để tạo ra các âm vực khác nhau, từ tiếng thanh của sáo nhỏ đến tiếng trầm của sáo to. Diều thường được thả ở cánh đồng đầu làng, sau đó được dắt về nhà của gia chủ hay đầu làng. Một cánh diều tiêu chuẩn là tiếng sáo phải rõ, trong, cánh diều phải đứng không chao, dây không được trùng.

Chẳng biết có từ khi nào nữa mà những trò chơi dân gian cứ dần dần rồi dần dần trở thành những trò chơi không thể thiếu đối với tất cả những đứa trẻ không chỉ ở thôn quê mà còn ở thành thị nữa. Những trò chơi dân gian chẳng phải chỉ dành cho trẻ em mà nó dành cho tất cả mọi lứa tuổi. Nói đến những trò chơi dân gian ta không thể không nhắc đến một trò chơi gắn liền đối với chúng ta đó là trò chơi thả diều.

Diều được làm từ rất nhiều chất liệu khác nhau như bằng giấy, vải hay bằng nilon. Nhưng được ưa chuộng nhất là nilon bởi là bằng vật liệu này diều không những có thể làm được những màu sắc hình dạng rất đẹp mà còn rất biền sử dụng được thời gian lâu. Tùy vào màu sắc và hình dạng ta có thể chọn rất nhiều loại diều với những hình dạng phong phú, người chơi có thể chọn được tùy theo ý thích của mình. Đó là đối với những loại diều dùng để sản xuất bán cho người chơi không thể chuẩn bị được hay không làm được. Ưu điểm của những loại diều này chính là mẫu mã rất đẹp lại phong phú đa dạng rất hợp mắt người chơi. Nhưng đối với những trẻ em ở quê thi lựa chọn số một vẫn là diều làm bằng giấy. Đối với loại diều này thì chất liệu làm ra rất đơn giản hợp với môi trường và sẵn có. Các em có thể tận dụng tất cả những giấy vở đã không dùng nữa để làm. Đối với những em nhỏ ở quê thì diều giấy không thể thiếu được khi mỗi mùa hè đến. Những cánh diều giấy nhẹ nhàng vút cao lên đến tận mây xanh khiến cho chúng ta như đang được bay lên cao cùng diều cùng với gió mới thật thú vị biết nhường nào.

Thả diều là trò chơi dân gian dựa theo sức nâng của gió bởi thế để thực hiện được trò này trước tiên chúng ta cần phải chọn được địa điểm thích hợp.

Đó là một bãi đất rộng thoáng không vướng cây cối hay vật chắn nào đó xa lối đi và phải có gió nhẹ. Và chúng ta cũng đừng quên những người bạn để cùng nhau thả diều thì mới vui. Những cánh diều thi nhau bay lên không chùn sẽ tạo cho chúng ta những cảm giác thăng hoa rất sảng khoái. Khi có gió thả diều thì một người cầm diều một người thả dây hoặc chúng ta có thể làm cả hai việc đó được mà không cần ai khác. Khi thả diều ta chọn đúng hướng gió, khi có gió ta ta thả diều thật nhẹ cho thật cân.

Cánh diều thường có hình trăng hoặc hình lưỡi liềm hay còn gọi là diều quạ. Khung diều thì thường được làm bằng cật tre bánh tẻ chuốt tròn và nối với nhau. Giữa khung diều là một xương sống bằng tre cứng to bản to nhô ra bên. Hai bên cánh diều cong lên tạo thành khung diều hình lưỡi liềm.

Chiều cong của cánh diều phải thật cân đối, khung diều phải chắc chắn và nhẹ. Diều được phất bằng giấy bản, bồi thành nhiều lớp bằng hồ dán. Sáo được xâu lại bằng một thanh tre đặt chéo góc ước chừng ba mươi độ với xương sống diều. Sáo thường làm bằng ống nứa, chia làm hai khoang, đầu gắn nắp hình vòm xẻ rãnh để gió lùa vào tạo nên âm thanh. Diều sáo trông đơn giản nhưng phải khéo tay mới làm được. Ngày trước chưa có loại dây dù, nilon nên dây neo thường là dây mây, sợi nhỏ được đập dập, xoắn lại rồi thắt nối thành sợi dây dài chừng dăm bảy trăm mét. Chẳng may dây neo mà đứt, cánh diều theo gió cuốn xa, thật xa, mang theo cả niềm tiếc nuối của người thả diều. Ngày nay, trước sự phát triển của nhịp sống hiện đại, các nhà máy, các dự án khu công nghiệp, dịch vụ thi nhau mọc lên. Những không gian thoáng đãng, lộng gió ở các vùng nông thôn đang dần bị thu hẹp, thú chơi thả diều cũng vì thế mà bị mai một. Bên cạnh đó, sự lấn át của các phương tiện giải trí hiện đại như: trò chơi điện tử, internet đã khiến cho không ít trẻ em không còn mặn mà với những cánh diều truyền thống. Song cánh diều ngày xưa của tuổi thơ hồn nhiên đầy ước vọng ngày thơ sẽ mãi vẹn nguyên trong tâm thức chẳng thể phai mờ.

Trò chơi thả diều sẽ mãi là một trò chơi là thú vui của nhiều người trong những ngày hè oi ả. Những ngày gió to ta đem diều ra thả chúng ta sẽ có những phút giây thật thú vị bình yên cùng cánh chim và một mảng xanh biêng biếc của bầu trời.

Hầu như ai còn nhỏ cũng đã từng chơi diều giấy, không chỉ những đứa trẻ ở nông thôn mà thành phố cùng được sắm những chiếc diều giấy để chơi khi đi dã ngoại cùng bạn bè, trường lớp.

Chiếc diều giấy trông lộng lẫy như vậy nhưng thực chất cách làm diều giấy không hề khó, từ xưa các phụ huynh cũng đã tự làm cho con chơi, nhưng cũng chỉ đơn thuần với những kiểu diều giấy truyền thống. Vậy trong bài này, chúng tôi hướng dẫn cách bạn cách làm diều giấy đơn giản với dáng diều màu sắc và có phần lung linh hơn.

Thanh tre đã vót

Dây cước

Hồ dán

Thước, kéo

Dao rọc giấy

Bút chì

Đầu tiên, để làm diều giấy bạn hãy dùng bút chì vẽ một hình vuông 40 cm x 40 cm và cắt ra bằng kéo.

Sau đó tiếp tục cắt những dải dây bằng giấy có kích thước 4cm x 60 cm.

Sau khi làm xong các dải giấy làm đuôi diều thì bạn tiến hành làm diều giấy bạn đo và cắt một thanh tre dài hơn đường chéo hình vuông khoảng 5 cm. Tiếp theo, bạn uống cong một phần thanh tre nằm trong tờ giấy và cắt giữ lấy phần này. Sau đó dùng dây căng nối 2 đầu thanh tre này để giữ độ cong của nó. Lúc này nó có dạng một cánh cung.

Bạn hãy khoét 2 lỗ 2 bên thanh tre thẳng ở phía đuôi của con diều, và 2 lỗ ở vùng giao nhau giữa thanh tre và chiếc cung diều.

Sau đó dùng dây buộc nối chúng lại và nối với dây kéo bên ngoài sao cho khi kéo ra thì ta có một tam giác vuông tại điểm kéo là bạn đã hoàn thành rồi đấy.

Chỉ trong nháy mắt, bạn đã có ngay chiếc diều giấy tuổi thơ đẹp mắt rồi. Diều giấy như món quà giúp bạn nhớ về những kỷ niệm tuổi thơ của mình: từng một thời chăn trâu, cắt cỏ, thả diều bay cao…cách làm diều giấy không hề khó, chỉ cần những nguyên liệu đơn giản sẵn có, bạn hoàn toàn có thể tự làm cho bé nhà mình những chiếc diều giấy với nhiều màu sắc đẹp mắt.

Thả diều là trò chơi dân gian phổ biến không chỉ ở nông thôn mà những đứa trẻ thành phố cũng rất yêu thích. Thả diều giúp thư giãn và tiêu khiển rất bổ ích mỗi khi rảnh rỗi.

Diều khi xưa chủ yếu làm bằng giấy nhưng ngày nay sử dụng nhiều chất liệu khác như vải, nilon. Hôm nay mình sẽ giới thiệu cho các bạn cách làm một con diều giấy đơn giản, dễ làm nhất. Trước tiên hãy chuẩn bị dụng cụ gồm có 2 thanh tre dài 50cm, 6 tờ giấy khổ 30 x 30cm, kéo, keo, băng dính, dây, dao. Sau khi chuẩn bị đầy đủ dụng cụ bắt đầu vào thực hiện.

Lấy thanh tre dài hơn đường chéo hình vuông khoảng 5cm. Uốn cong thanh tre nằm trong tờ giấy và cắt giữ lấy phần này. Dùng một sợi dây cước căng nối hai đầu thanh tre để giữ độ cong. Thanh tre và sợi dây thành hình cánh cung. Sử dụng hồ dán những mẩu giấy nhỏ dán thanh tre dài ở trên vuông góc với cánh cung ở dưới vào con diều. Dán sao cho chắc chắn để cố định mép diều.

Công đoạn tiếp theo là dán đuôi diều và cánh diều, làm đuôi diều rất dễ chỉ cần cắt giấy nhỏ hình tròn, sau đó móc chúng vào nhau tạo thành đuôi móc xích. Mỗi đoạn móc xích khoảng 40 – 50cm. Đoạn đầu hãy dán vào phần góc dưới của con diều.

Dùng những miếng giấy dài dán vào 2 phía của diều, luồn sợi chỉ qua thanh tre ở phía trên, chỗ giao nhau giữa cánh cung và chiếc diều, dùng sợi chỉ buộc lại cho chắc chắn như vậy là hoàn thành phần đuôi con diều.

Khi làm diều nên chú ý nếu diều không cân diều bay dễ lảo đảo. So với diều vải, ni lông thì diều làm giấy dễ rách, dễ bị thấm nước nên khi chơi phải bảo quản tốt, không nên để chỗ ẩm ướt, tránh va đập vào vật nhọn sẽ bị rách và không chơi được nữa.

Một số hướng dẫn đơn giản nhất về cách làm diều giấy hi vọng các bạn thực hiện thành công. Thả diều giúp thư giãn, giải trí, cánh diều bay lên hình ảnh đẹp và xua tan đi mệt mỏi, muộn phiền trong cuộc sống.

Từ bao đời nay, Việt Nam đã nổi tiếng với khá nhiều những trò chơi dân gian. Ở thời buổi công nghiệp đang phát triển một cách nhanh chóng như bây giờ thì có lẽ những thú vui trong những lúc mệt mỏi, căng thẳng là rất quan trọng. Một trong số những thú vui ấy phải nói đến trò chơi thả diều.

Thả diều là trò chơi dân gian mà ông cha ta đã để lại bao đời nay. Đó là một thú vui tao nhã, một trò chơi làm con người ta xua tan đi bao mệt nhọc. Nhưng hầu hết trò chơi này chỉ còn thịnh hành ở một số vùng quê. Bây giờ khi xã hội đang phát triển các trò chơi xuất hiện hàng loạt. Các món đồ chơi hiện đại có thể đã thay thế những chiếc diều thả. Hay các loại diều với đủ kiểu dáng, màu sắc có đầy trên thị trường. Nhân đây tôi muốn giới thiệu về cách làm một con diều giấy đơn giản.

Diều có thể làm bằng vải, giấy, nilon. Nhưng tôi muốn giới thiệu cho các bạn cách làm một con diều giấy quen thuộc và dễ làm nhất đối với học sinh chúng ta. Các dụng cụ để làm một con diều giấy gồm: 2 thanh tre dài 40-50cm, 6 tờ giấy khổ 30x30cm, kéo, keo, băng dính, dây, dao. Vậy là khâu chuẩn bị xem như xong.

Bắt tay vào làm, trước hết ta dùng dao vuốt 2 nan tre tròn, kích thước phải nhỏ, nhẹ nhưng phải dẻo dai tránh bị gãy. Lấy 1 tờ giấy rồi đặt 2 nan tre vào mặt tờ giấy tạo thành hình chữ ”x” đối xứng với các đầu. Sau đó cắt phần còn thừa của thanh nan. Dùng băng dính dán 2 thanh nan vào con diều sao cho chắc chắn. Lấy 5 tờ giấy còn lại cắt thành những mảnh nhỏ có chiều dài 30cm, chiều rộng 5cm. Dính những mảnh giấy nhỏ lại với nhau thành 3 dây dài sao cho 2 dây bằng nhau khoảng 50cm và 1 dây dài 80 cm. Vậy là chúng ta đã làm xong đuôi diều. Tiếp theo ta đặt diều thành hình thoi rồi dán đuôi vào. Sao cho 2 đuôi nhắn dán, dán vào 2 góc bên của hình thoi, dây dài nhất dán vào góc dưới. Lấy 1 đoạn dây dài chừng 10cm buộc vào thanh nan thẳng đứng. Buộc 2 đầu dây sao cho nốt buộc đầu trên dài hơn về phía đầu diều. Tôi đã giới thiệu cách làm diều xong.

Nhưng các bạn nên nhớ làm diều phải cân nếu không diều sẽ bay không thăng bằng. Khi làm xong phải chỉnh diều và kiểm tra để tránh những sự cố đáng tiếc. Diều làm bằng giấy nên rất dễ rách chúng ta phải cẩn thận khi thả. Tránh để diều ở những nơi ẩm ướt. Khi chơi xong phải cuộn dây cẩn thận nếu không lần sau chơi diều sẽ dễ bị rối.

Tôi đã giới thiệu xong cách làm diều. Nếu ai chưa biết hoặc chưa từng chơi diều thì hãy thử khám phá. Đó là 1 thú vị mà ông cha ta để lại. Nó sẽ giúp bạn giảm đi mệt mỏi. Hãy giữ cho mình một chút gì đó rất Việt trong mỗi con người Việt Nam.

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Cố Đô Huế (Dàn Ý + 8 Mẫu) Thuyết Minh Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 8

Quần thể di tích cố đô Huế nằm bên cạnh sông Hương, giữa trung tâm thành phố Huế, với diện tích khoảng hơn 500 ha. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết để có thêm nhiều ý tưởng mới, nhanh chóng hoàn thiện bài văn thuyết minh danh lam thắng cảnh của mình.

1. Mở bài:

Giới thiệu về quần thể di tích cố đô Huế.

2. Thân bài:

a. Vị trí, lịch sử hình thành và phát triển:

Nằm bên cạnh dòng sông Hương, giữa trung tâm thành phố Huế, với diện tích khoảng hơn 500 ha.

Từng là kinh đô của cả nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn.

Được các thời vua Nguyễn liên tục xây dựng và trùng tu nhiều công trình kiến trúc, tạo nên một tổng thể kinh thành đồ sộ và tráng lệ.

Đặc điểm: Chủ yếu được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống của Huế, tuân theo các nguyên tắc phong thủy của phương Đông, lối bố trí kiểu kết hợp nhà vườn, cân bằng, hài hòa giữa kiến trúc nhân tạo và tự nhiên.

b. Kết cấu: Gồm ba bộ phận chính là Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, với ba vòng thành tương ứng.

* Kinh thành Huế:

Là vòng ngoài cùng bao gồm một số công trình phụ và các lăng tẩm được xây dựng rải rác khắp nơi qua các đời vua.

Được khởi công xây dựng vào năm 1805, dưới thời vua Gia Long, nằm trên hai chi Bạch Yến và Kim Long của dòng sông Hương.

Được xây dựng trên một mặt bằng gần vuông hơi khum hình cánh cung, bên ngoài được bao bọc bởi hệ thống tường thành có chu vi 10571 mét.

Một số kiến trúc nổi bật: Kỳ Đài trường, Trường Quốc Tử giám, Điện Long An, Hồ Tịnh tâm, đình Phú Xuân.

* Hoàng thành:

Còn gọi là Đại Nội được xây dựng vào năm 1804, trên một mặt bằng hình vuông với diện tích khoảng 36 ha, được bao bọc xung quanh bởi tường thành.

Ngọ Môn quan là cửa chính và lớn nhất, chỉ dành riêng cho vua và các sứ thần đi lại, nằm ở hướng Nam, có bình diện kiểu đài chữ U, bên trên đài đặt lầu Ngũ Phụng.

Các công trình trong Đại Nội được đặt theo trục dọc đối xứng, các công trình dành cho vua thì đặt chính giữa, các công trình phụ đặt hai bên.

* Tử Cấm thành:

Các công trình phục vụ đời sống, sinh hoạt của hoàng tộc như điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa,…

Công trình phục vụ việc thờ tự như Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân…

3. Kết bài:

Nêu cảm nhận.

Huế nổi tiếng là nơi phong cảnh hữu tình với những nét đặc sắc về danh lam, thắng cảnh của một kinh thành cổ xưa. Vậy chúng ta hãy đến với Huế thơ mộng.

Đầu tiên ta hãy tìm hiểu nét đặc sắc trong di tích, thắng cảnh Huế về nghệ thuật thời này được nhận xét chung là có sự hài hoà với thiên nhiên, được kết cấu với nghệ thuật trang trí và chặt chẽ trong kết cấu tổng thể. Kiến trúc kinh đô Huế là một quần thể kiến trúc rộng lớn gồm Hoàng thành, các cung điện, lăng tẩm… được xây dựng theo ý muốn của triều đình và sở thích của các vua. Kiến trúc cung đình thường sử dụng những mẫu trang trí mang tính quy phạm gắn với tư tưởng Nho giáo. Bên cạnh kiến trúc cung đình là những làng cổ được xây dựng cách không xa Hoàng thành. Rất nhiều làng nghề thời này làm ra những sản phẩm để sử dụng trong cung đình. Một số nghệ thuật thời này đã phát triển đa dạng như điêu khắc, đồ hoạ, hội hoạ nhằm trang trí cho cung đình nơi cố đô.

Kiến trúc cung đình Huế là một quần thể có quy mô to lớn, bao gồm rất nhiều lăng tẩm, Hoàng thành. Bên cạnh Phòng thành (xây dựng từ những năm 1805 – 1817), Hoàng thành và Tử cấm thành (1840), đàn Nam Giao,… là những công trình giá trị. Những lăng tẩm, phủ chúa nổi tiếng như lăng Gia Long (1814 – 1820) lăng Minh Mạng (1820 – 1840), lăng Tự Đức (1864 – 1867) rất uy nghi. Ngoài ra cửa Ngọ Môn cũng là một tác phẩm lớn, trang nghiêm. Hơn nữa thiên nhiên và cảnh quan luôn được coi trọng, tạo ra một nét riêng của kiến trúc cung đình Huế. Bên lăng Tự Đức, hàng trăm cây lớn bé, xanh um. Ớ đây có những hồ rộng khoảng vài chục mét vuông, uốn lượn. Bên hồ là lầu để trước đây vua đến chơi nghỉ; những tảng đá phẳng được dùng như những bộ bàn ghế kê ở ven hồ. Những tranh ghép sứ kính trong lăng Khải Định gồm những bức lớn, màu sắc ẩn hiện rất độc đáo. Những hình trang trí thì cầu kì, màu sắc sặc sỡ. Hình bao gồm chủ yếu là rồng vây quanh cột, in trên tương và rải rác theo dọc tường là những khung chữ Nho.

Cuối cùng là những làng nghề tập trung không xa khu Hoàng thành, trong đó có làng Việt cổ Phước Lĩnh. Cách Huế ba lăm ki-lô-mét về phía Bắc, làng được bao quanh sông Ô Lâu, trông như một bán đảo riêng biệt. Ngày xưa nơi đây được gọi là Cồn Dương. Dân làng ít ai làm ruộng mà chủ yếu sống nhờ vào vườn tược và nghề gốm. Gốm Phước Lĩnh đã trở nên lâu đời, nổi tiếng và thường được cung cấp cho vua chúa nhà Nguyễn. Ngày nay làng không còn làm gốm nữa mà chỉ còn các dấu tích của một thời.

Những lối ngõ với những hàng chè tàu tăm tắp được cắt tỉa cẩn thận. Nhiều loại cây ăn quả như cây vả, cây thị… Hoa hoàng lan, mộc lan… hoa màu vàng nhỏ xíu, mùi hương nhẹ thầm kín. Những miếu cổ um tùm cỏ cây, những ngôi mộ cổ,… Đặc biệt ở đây còn lại 30 nhà, có chừng cả 100 năm tuổi. Bên trong những căn nhà này nhiều vật dụng được chạm khắc khá công phu và tinh tế. Nghệ thuật kiến trúc dân gian ở đây đã đạt đến độ tinh xảo. Còn ở cái hồ làng, mùa sen, hoa nở tím biếc cả một vùng, ở đây, nhà cổ, vườn tược, đình chùa, miếu mạo vẫn còn là sức sống diệu kì. Nơi này hẳn phải là nét nổi bật trong di tích Huế.

Qua đây ta thấy, Huế có những nét đặc sắc trong di tích, thắng cảnh, trong kiến trúc cung đình. Tất cả là sự hài hoà của cảnh sắc thiên nhiên, là một quần thể kiến trúc có quy mô to lớn. Càng hiểu về nơi đây, mỗi chúng ta càng phải cùng nhau giữ gìn để nơi cố đô ấy mãi mãi trường tồn.

Thành phố Huế từ lâu đã trở thành một địa danh quen thuộc đối với người việt nam và bạn bè thế giới. Nơi đây phong cảnh không những hữu tình mà con người cũng hết sức hồn hậu. Huế mang trong mình vẻ đẹp cổ kính vừa nên thơ vừa hết sức mạnh mẽ. Ai một lần đến Huế sẽ mãi nhớ về vẻ đẹp bình dị mà thanh cao của xứ sở này.

Huế nằm ở dải đất hẹp của miền Trung Việt Nam và là thành phố tỉnh lị của Thừa Thiên – Huế. Phía Bắc thành phố và phía Tây giáp thị xã Hương Trà, phía Nam giáp thị xã Hương Thuỷ, phía Đông giáp thị xã Hương Thuỷ và huyện Phú Vang. Tọa lạc hai bên bờ hạ lưu sông Hương, về phía Bắc đèo Hải Vân, cách Đà Nẵng 105km, cách cửa biển Thuận An 14km, cách sân bay quốc tế Phú Bài 14 km và cách Cảng nước sâu Chân Mây 50 km. Huế là trung tâm quan trọng về nhiều mặt của miền Trung như văn hoá, chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế, du lịch, khoa học kĩ thuật, đào tạo,…

Lịch sử mở cõi về phương Nam của dân tộc Việt diễn ra trong một tiến trình lâu dài. Mốc lịch sử đầu tiên là phải kể đến sự kiện năm 1306, Công chúa Huyền Trân được gả làm vợ vua Chiêm là Chế Mân, để đổi lấy hai Châu Ô và Châu Lý làm sính lễ. Năm 1307, vua Trần Anh Tông tiếp quản vùng đất mới và chính thức sáp nhập vào lãnh thổ đất nước. Châu Ô và Châu Lý chính là Thừa Thiên – Huế sau này.

Hiện chưa rõ địa danh “Huế” chính thức xuất hiện lúc nào. Vua Lê Thánh Tông có lẽ là người đầu tiên nói đến địa danh Huế trong bài văn nôm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn. Trong đó có câu: “Hương kỳ nam, vảy đồi mồi, búi an tức, bì hồ tiêu, thau Lào, thóc Huế, thuyền tám tầm chở đã vạy then”. Trước và sau đó, đều dùng cái tên Phú Xuân hoặc Kinh đô, hoặc Kinh, chứ không dùng tên Huế. Cái tên Huế về sau có nhiều lần xuất hiện trong các văn bản, tuy nhiên là rất ít ỏi. Đến triều Gia Long gọi đây là phủ Thừa Thiên.

Cho đến thời kỳ đầu Pháp thuộc, Huế là một tên gọi dân gian để chỉ Kinh thành. Mãi đến ngày 12 tháng 7 năm 1899, dưới tác động của chính quyền thực dân muốn đẩy nhanh quá trình đô thị hóa, vua Thành Thái đã ban Dụ thành lập thị xã Huế (Centre urbain de Hué), với ranh giới được xác lập xen giữa Kinh thành bao gồm các vùng phụ cận quanh kinh thành và dải đất dọc theo bờ nam sông Hương. Từ đó, địa danh Huế trở thành địa danh chính thức cho đến tận ngày nay.

Từng là Kinh đô của triều đại nhà Nguyễn, chính vì thế mà Huế được xem là một trong những thành phố có bề dày lịch sử, văn hóa lâu đời nhất ở nước ta. Không chỉ là văn hóa di tích mà Huế còn quyến rũ du khách bởi những cảnh quan thiên nhiên hữu tình thi vị và con người chân chất hiền hòa. Dù trải qua những thăng trầm lịch sử dữ dội, Thành phố Huế luôn giữ cho mình nét văn hóa riêng và bảo tồn những di tích lăng tẩm, đền đền của các vị vua chúa không bị mai một. Huế ngày nay được xem là một bảo tàng lộ thiên với điện ngọc, đền vàng, lãng tẩm. Đó chính là di sản văn hoá vật chất về di tích cố đô, và là di sản văn hoá của cung đình Việt Nam. Huế vừa là một cô đô, vừa là một thành phố đẹp, thơ mộng của đất nước ta.

Huế không chỉ cuốn hút du khách bởi những nét đẹp văn hóa, lịch sử, những nét đẹp cổ kính, mà còn thu phục lòng người bởi sự thân thiện của con người xứ Huế, sự dịu dàng, ngọt ngào của người con gái Huế khiến ai cũng phải si mê, hay những cơn mưa bất chợt tháng mười tạo nên những cảm giác trầm mặc, lắng đọng và cũng thật lãng mạn.Những nét đẹp ấy, khiến du khách không khỏi khôn nguôi, nhớ thương khi rời xa đất Huế. Đến với Huế là đến với những nét đẹp nên thơ, hữu tình.

Kinh thành Huế là một công trình kiến trúc kết hợp nghệ thuật Đông – Tây. Thành xây theo kiểu Vauban hình ngôi sao phổ biến ở Âu châu, kết hợp với các nguyên tắc kiến trúc trong Kinh Dịch và thuật phong thủy khi chọn đất, định hướng và sử dụng các yếu tố tự nhiên. Hệ thống lăng tẩm, đình ,đài của các đời vua nhà Nguyễn xây dựng góp phần hoàn thiện kiến trúc, khắc sâu bề dày lịch sử của thành phố này. Dạo bước quanh thành, nhìn những lăng tẩm nguy nga tráng lệ, được xây dựng công phu ta có cảm giác như được trở về ngàn năm xưa cũ, được đắm mình trong không khí vương triều xa xưa.

Sông Hương là một đặc ân mà tạo hóa đã ban tặng cho xứ Huế. Có thể nói nếu không có sông Hương thì cũng không có một thành phố Huế thơ và mộng. Từ vùng rừng núi Đông Trường Sơn, sông Hương chảy qua những khe đá trên nguồn có nhiều cây thạch xương bồ và mùi thơm của loài cây này đã thành tên của con sông xinh đẹp, sông Hương. Dạo một vòng quanh phố Huế, sông Hương lững lờ trôi về xa như còn lưu luyến lắm. Bởi thế, nhắc đến Huế, người ta lại nghĩ về sông Hương và ngược lại, nhắc đến sông Hương, người ta lại nhớ đến vẻ đẹp thơ mộng của Huế.

Núi Ngự cách sông Hương 3km về phía nam, với chiều cao 104m. Dáng núi bằng phẳng, uy nghi, cân đối như hình con chim đại bàng đang vỗ cánh, cho nên người xưa gọi là Bằng Sơn, sau vua Gia Long đổi tên là núi Ngự Bình. Chùa Thiên Mụ được xây dựng năm 1601 thời chúa Nguyễn Hoàng. Chùa được xây trên đồi Hà Khê bên tả ngạn sông Hương, cách kinh thành Huế 4km về phía tây nam.

Thành phố Huế trước đây còn là kinh đô của nhà Nguyễn hàng trăm năm, nên đã hội tụ văn hoá nhiều miền của đất nước, tạo nên một di sản văn hoá đồ sộ. Văn hóa Huế được tạo nên bởi sự đặc sắc về tinh thần, đa dạng về loại hình, phong phú và độc đáo về nội dung, thể hiện rất phong phú trên nhiều lĩnh vực như: văn học, âm nhạc, sân khấu, mĩ thuật, phong tục tập quán, lễ hội, lề lối ứng xử, ăn – mặc – ở, phong cách giao tiếp, phong cách sống,…

Ca dao Huế đến nay vẫn còn giữ được sức sống, và còn tiếp tục hòa nhập vào cuộc sống mới, như một tổng kết của tiền nhân, trao truyền lại cho các thế hệ mai sau. Là một di sản văn hoá của dân gian, ca dao Huế, một kho tàng trí tuệ độc đáo, một gia tài văn hoá cộng đồng, đã trải qua thử thách của năm tháng. Người ta có thể tìm thấy ca dao từ những câu hát ru con, những câu hò trên sông nước, thường nghe được ở Huế và các vùng phụ cận.

Và, có nhiều nhà thơ, nhà nho Huế cũng đã làm cho nền ca dao phong phú lên. Cụ thể như những câu hò mái nhì, những câu ca dao của Ưng Bình Thúc Dạ Thị cũng đã làm cho nền văn học dân gian trở nên sinh động, và nó đi vào trong tâm thức của con người. Ngoài ca dao, câu hò, Huế còn nổi tiếng với những lễ hội đặc sắc. Có hai loại lễ hội: lễ nhạc cung đình và lễ hội dân gian. Lễ nhạc cung đình phản ánh sinh hoạt lễ nghi của triều Nguyễn. Bắt nguồn từ 8 loại lễ nhạc cung đình thời Lê là giao nhạc, miếu nhạc, ngũ tự nhạc, cửu nhật nguyệt giao trùng nhạc,… đại triều nhạc, thường triều nhạc, đại yến cửu tấu nhạc, cung trung nhạc, đến triều Nguyễn, lễ nhạc cung đình Việt Nam đã phát triển thành hai loại hình Đại nhạc và Nhã nhạc (tiểu nhạc) với một hệ thống các bài bản lớn.

Lễ hội dân gian gồm nhiều loại rất phong phú, tiêu biểu như: lễ hội Huệ Nam ở điện Hòn Chén hay còn gọi là lễ rước sắc nữ thần Thiên y A na theo tín ngưỡng của người Chăm pa, lễ hội tưởng niệm các vị khai sinh các ngành nghề truyền thống, lễ hội tưởng nhớ các vị khai canh thành lập làng. Trong những dịp tế lễ, nhiều sinh hoạt văn hóa bổ ích như đua thuyền, kéo co, đấu vật,… còn được tổ chức và thu hút đông người xem.

Đặc biệt nhất là Festival Huế. Tổ chức lần đầu tiên vào năm 2000, đến nay Festival Huế tổ chức được 6 lần (2000, 2002, 2004, 2006, 2008, 2010). Đây là sự kiện văn hóa lớn có quy mô quốc gia và tầm cỡ quốc tế, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của người dân Huế, là điều kiện quan trọng để xây dựng Huế thành thành phố Festival của Việt Nam.

Thiên nhiên đã ưu đãi cho xứ Huế nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, nhưng Huế thật sự tỏa sáng cùng những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể do con người tạo nên. Nơi đây là xứ hội tụ tinh hoa văn hóa, làm nên một tinh thần, một sắc thái rất riêng của Huế.

Cứ mỗi khi nhắc đến tỉnh miền trung, thì suy nghĩ đầu tiên trong đầu của mọi người đó là một vùng đất quanh năm mưa lũ, hạn hán, thiên tai, gắn với những con người cần mẫn, lam lũ, chân chất. Ấy vậy, mà miền Trung còn mang trong mình vẻ đẹp tinh tế ở phía Nam Trung Bộ với Đà Nẵng và phía Bắc Trung Bộ với tỉnh Thừa Thiên Huế đầy mơ mộng. Trong đó, không thể không kể đến quần thể di tích Cố Đô Huế nằm ở bộ phận bờ bắc con sông Hương xinh đẹp thuộc địa phận của thành phố Huế và nằm rải rác một vài vùng lân cận tỉnh Thừa Thiên Huế.

Cố Đô Huế có một chiều dài lịch sử hình thành lâu đời, đây từng là nơi ngự trị cai quản của 9 đời nhà chúa Nguyễn ở đàng trong ở thời kỳ phân chia giữa chế độ “vua Lê chúa Trịnh”. Nhắc đến quá trình tạo hóa, lịch sử lâu đời của vùng đất thiêng liêng này, không ai có thể quên được chúa tiên Nguyễn Hoàng, người đã có công trong việc mở mang bờ cõi nước nhà, tạo sự thịnh vượng và tiền đề vững chắc phát triển triều Nguyễn lâu dài. Nghe lời khuyên của trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” và biết mình không được thuận ý trong mắt người ảnh rể Trịnh Kiểm, do đó ông nhanh chóng xin vào trấn thủ, cai quản vùng đất Thuận Hóa, và đó cũng chính là thời kì khởi đầu kéo dài dưới sự cai trị của 9 vị chúa Nguyễn ở đàng trong. Quần thể di tích Cố Đô Huế được nhà Nguyễn chủ trương khởi công xây dựng vào khoảng từ thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20. Nó được chính thức bắt đầu xây dựng nên từ năm 1805 và trải dài 27 năm nó được hoàn thành mỹ mãn vào dưới triều của nhà vua Minh Mạng. Cố Đô Huế là một công trình thiết kế và xây dựng kết hợp theo hai phong cách vừa pha một chút phương tây vừa một chút phương đông tạo nên một quần thể kiến trúc tuyệt đỉnh.

Quần thể di tích Cố Đô Huế xinh đẹp này là sự góp phần của các công trình tiêu biểu như Tử Cấm Thành, các lăng tẩm, đền đài, chùa chiền… Nằm dọc phía bờ bắc của con sông Hương êm ả là hệ thống kiến trúc quy mô, đồ sộ của chúa Nguyễn: Tử Cấm Thành, Hoàng Thành Huế và Kinh Thành Huế, nó vẫn kiên cường sừng sững giữa bao biến động của thời gian trải dài từ Tây sang Đông hùng vĩ. Kinh Thành Huế là nơi đầu tiên được vua Gia Long khảo sát vào năm 1803, và sau 2 năm thì nó được chính thức khởi công xây dựng dưới sự giám sát của nhà Nguyễn. Đây là nơi có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu, phía tây giáp giáp đường Lê Duẩn, phía nam giáp đường Trần Hưng Đạo. Phía bên trong của kinh thành cũng có vị trí vô cùng thuận lợi được giới hạn theo bản đồ gồm:phía tây là đường Tôn Thất Hiệp, phía đông là đường Xuân 68, phía nam là đường Ông Ích Khiêm và phía bắc giáp đường Lương Ngọc Quyến. Kinh thành Huế được thiết kế theo phong cách độc đáo kiến trúc Vauban, gồm 3 vòng thành bao quanh chặt chẽ kinh thành, hoàng thành, Tử Cấm Thành. Trong chiều dài lịch sử Việt Nam từ xưa đến nay có lẽ Kinh Thành Huế được coi là công trình có quy mô và sức ảnh hưởng lớn nhất, với cấu tạo gồm hàng triệu mét khối đất đá cấu thành kéo dài dưới hai triều vua trong vòng 30 năm khởi công xây dựng. Trong kinh dịch ghi “ Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ”, bởi kinh thành Huế hay Hoàng Thành, Tử Cấm Thành đều được quy hoạch bên bờ bắc của sông Hương và được xây dựng xoay mặt về phía Nam. Bên trong kinh thành là khu vực Hoàng Thành là nơi bàn chính sư của vua chúa triều đình và cũng là nơi ở của Hoàng gia, thờ tự tổ tiên. Hoàng Thành có tất cả 4 cửa được phân bổ đều ở cả 4 mặt, Ngọ Môn là cửa chính của nó. Năm 1804, Hoàng Thành được khởi công xây dựng nhưng vẫn chưa hoàn chỉnh cho mãi đến năm 1833 vào thời vua Minh Mạng thì hệ thống cung điện quy mô tráng lệ này mới được hoàn tất. Đa số mọi người thường gọi Hoàng Thành và Tử Cấm Thành là Đại Nội vì đây vừa là nơi thiết triều mà còn là khu vực miếu thờ. Nằm ở phía bên trong Hoàng Thành và cũng là vòng thành phía trong cùng được gọi tên Tử Cấm Thành, nó còn bao gồm rất nhiều các công trình quy mô từ nhỏ đến lớn khác nhau và được phân chia ở nhiều khu vực riêng lẻ làm nhiệm vụ khác nhau. Đại nội hay còn được biết đến là một nơi bất khả xâm phạm, tuyệt mật tuyệt đối của vua chúa, không ai được phép đặt chân vào nếu không có sự cho phép của vua. Nằm ở phía tây của kinh thành dọc theo bờ sông Hương êm ả là hệ thống lăng mộ uy nghi của vua triều Nguyễn. Mỗi một lăng mộ tượng trưng cho sĩ khí, hành trình cuộc đời của các vị vua. Nếu lăng Minh Mạng mang trong nó sự hùng mạnh, uy nghi, tráng lệ giữa rừng núi hồ ao, thì lăng Tự Đức lại mang trong mình sự thoáng đãng, thơ mộng, gần gũi với thiên nhiên cứ tưởng chừng như một bức họa sơn thủy trong lành. Với chiều dài lịch sử hùng hồn vẻ vang, cùng với bề dày văn hóa lâu đời, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp hữu tình, từ lâu Huế đã và đang trở thành một trung tâm du lịch hấp dẫn đối với cả du khách trong nước và ngoài nước.Đặc biệt lễ hội Festival Huế là nơi khơi dậy và làm sống lại những giá trị văn hóa của Huế thông qua nhiều chương trình lễ hội đặc sắc, là sự kết hợp giữa văn hóa dân gian và văn hóa cung đình tinh tế.

Quần thể di tích Cố Đô Huế là một biểu tượng văn hóa độc đáo không chỉ của Việt Nam mà còn là thế giới, đánh dấu mốc son quan trọng trong sự nghiệp mở rộng bờ cõi của nước nhà. Đến đây, khách du lịch không chỉ được tận mắt chứng kiến những công trình kiến trúc lộng lẫy, uy nghi mà còn bị thu hút, ấn tượng bởi giọng nói ngọt ngào của các cô gái Huế, những bài thơ bài ca đã đi vào lòng người xao xuyến biết bao. Và mãi cho đến ngày hôm nay, Cố Đô Huế vẫn mãi trường kỳ theo thời gian, sánh vai với các kỳ quan trên thế giới, xứng đáng là biểu tượng tự hào của người dân Việt Nam trên khắp đất nước.

Huế nằm ở miền Trung của đất nước phía Bắc giáp Quảng Trị, phía Nam giáp Đà Nẵng, phía Đông giáp biển đông ( thuộc Thái Bình Dương), phía Tây dựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ. Huế cách Hà Nội 660km, cách thành phố Hồ Chí Minh 1080 km.

Huế là từ Hóa trong Thuận Hóa được chệch ra. Đầu thế kỷ XIV Thuận Hóa là một khu dân cư trù phú Phúc Xuân là một làng quê thuộc Thuận Hóa được các chúa Nguyễn đặt làm thủ Phủ vào năm 1687. Nhưng phải hơn 100 năm sau vào 1789 Quang Trung đại phá quân Thanh thì Phú Xuân mới trở thành kinh đô của cả nước.

Kinh thành Huế là một hệ thống gồm ba vòng thành: Kinh thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành. Kinh Thành là nơi dân chúng sinh sống. Hoàng Thành là nơi ở của quan lai. Tử Cấm Thành là nơi ở của Vua. Hoàng Thành và Tử Cấm Thành được gọi chung là Đại Nội. Trong Tử Cấm Thành có điện Cần Chánh là nơi vua làm việc hằng ngày có ngai vàng, có sân rồng để các quan dâng sớ có triện Ngọc tiếng chuông cho uy quyền.

Còn điện Càn Thành là nơi vua ở. Nơi đây có các cung tần mỹ nữ chỉ hoạn quan mới được tự do đi lại hầu hạ cai quản hậu cung. Kinh Thành Huế là một công trình kiến trúc độc đáo kết hợp nghệ thuật Đông Tây. Mang tên thành phố, thành lũy ngôi sao. Thành được xây theo kiểu văn bản hình ngôi sau chủ yếu của Châu Âu kết hợp với nguyên tắc kiến trúc trong kinh dịch và thuật phong thủy khi chọn đất định hướng và sử dụng các yếu tố tự nhiên.

Lăng minh mạng được xây dựng 1840 trước khi ông mất một năm. Lăng có nét quyến rũ của vùng đất thiên nhiên núi cẩm khê bên cạnh sông Hương cách kinh đô 12 km.

Lăng Tự Đức được xây dựng cách kinh đô Huế 7 km trên núi Vạn Niên. Lăng được xây dựng 1864 hoàn thành 1867 lăng có Hồ nước, rừng cây. Có nơi cho vua ngồi câu cá, có nhà nghỉ dưỡng rất đẹp.

Lăng Khải Định bức tranh trên tường vẽ bốn mùa trên nóc là tranh rồng trời. Trong căn phòng có bức tượng Khải Định bằng đồng đúng với khuôn mẫu ngoài đời có lọng che bằng đồng, hoa văn đường nét hết sức tinh xảo.

Sông Hương, nếu không có Sông Hương thì không có Thành Phố thơ và mộng, Sông Hương được hình thành từ các nguồn nước chảy trên dãy Trường Sơn đổ xuống. Nước từ trên nguồn đổ xuống có cây Thạch Xương bồ mùi hương lan tỏa vì thế nước Sông Hương có mùi hương lạ thường nên con sông có cái tên rất thi vị – Hương Giang.

Núi ngự cách Sông Hương 30 km về phía nam cao 104 m, dáng núi bằng phẳng uy nghi như hình đại bàng vỗ cánh vì thế nó có tên là Bằng Sơn. Vua Gia Long đã đổi tên thành núi Ngự Bình.

Chùa Thiên Mụ được xây dựng vào thời chúa Nguyễn Hoàng. Chùa được xây dựng trên đồi Hà Khê bên dòng sông Hương cách kinh thành Huế 4 km về phía Nam.

Huế vừa là cố đô vừa là thành phố đẹp của nước ta. Huế đẹp và thơ đã đi vào lịch sử của những con người thành phố anh hùng. Chúng ta hãy cố gắng được đặt chân một lần đến đây để thưởng thức những điều tuyệt vời nhất về cố đô Huế.

Trong số các di sản văn hóa thế giới tại Việt Nam, có lẽ di sản được chú ý nhiều nhất là cố đô Huế. Đây là một quần thể di tích lịch sử – văn hóa lớn của nước ta do triều Nguyễn xây dựng. Ngày nay, cố đô Huế là một địa điểm du lịch vô cùng hấp dẫn thu hút rất nhiều lượt du khách tới tham quan mỗi năm. Những công trình kiến trúc đồ sộ, các tòa thành, cung đình của vua chúa, những lễ hội, nét văn hóa cung đình còn lưu giữ nơi đây là một nét vô cùng đặc sắc, riêng biệt mà chỉ có ở Huế. Đó cũng là điều hấp dẫn riêng cho du lịch nơi đây.

Quần thể di tích Cố đô Huế nằm dọc hai bên bờ sông Hương thuộc thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Cố đô Huế là thủ đô của nước Việt Nam thống nhất dưới triều nhà Nguyễn từ năm 1802, sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, mở đầu cho nhà Nguyễn, một vương triều phong kiến cuối cùng của nước ta. Đến năm 1945, khi vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến là vua Bảo Đại thoái vị, Huế từ đó cũng không còn là thủ đô của nước ta và kinh đô Huế xưa trở thành cố đô cũng từ đó.

Khi chọn Huế là kinh đô, vua Gia Long đã cho xây dựng Huế thành một kinh thành có tính phòng thủ cao. Ông cho xây dựng một loạt tường thành, cung điện, công sở, đồn lũy ở bờ bắc sông Hương như Kinh Thành cùng với các phòng, bộ nha viện trong kinh thành, các công trình phòng thủ quân sự dọc bờ nước sông Hương, sông Hộ Thành và cửa biển Thuận An. Các công trình này đều được xây dựng theo kiểu kiến trúc truyền thống, kết hợp nhiều kiểu kiến trúc khác nhau.

Tại cố đô Huế, không chỉ có các kiến trúc kiểu phương Đông truyền thống mà còn có các công trình kiến trúc được thiết kế và xây dựng theo kiểu phương tây, điều này đã làm nên sự đa phong cách cho kiến trúc nơi đây. Cố đô Huế đã trải qua nhiều biến động, thăng trầm của lịch sử. Đã có thời kỳ phát triển hưng thịnh trở thành kinh đô bậc nhất nước ta từ trước đến giờ, cũng đã có lúc bị tàn phá một cách ghê gớm, rồi sau đó lại được xây dựng và phục hồi trở lại. Sức sống của cố đô này thật lâu bền và mãnh liệt.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cố đô Huế bị tàn phá một cách nặng nề, tử cấm thành gần như bị xóa sổ, các khu vực lăng tẩm đền miếu trong ngoài Kinh Thành bị hư hỏng nặng. Ngoài ra những tàn phá của tự nhiên cùng với việc bảo vệ và trùng tu khu di tích này không được tiến hành sát sao nên đã khiến cho cố đô Huế càng trở nên tàn tạ. Cho đến năm 1981, khi UNESCO ra lời kêu gọi cứu vãn Huế và phát động cuộc vận động quốc tế giúp đỡ thì cố đô Huế đã bắt đầu được tôn tạo cẩn thận và trở lại quỹ đạo ban đâu.

Cố đô Huế là một di sản văn hóa thế giới tại Việt Nam, một địa điểm du lịch hấp dẫn và lôi cuốn. Nơi đây mang những giá trị vô cùng to lớn về văn hóa và du lịch. Hệ thống kiến trúc của kinh thành Huế biểu thị cho quyền uy của chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, một chế độ phong kiến tập trung mọi quyền lực vào tay nhà vua. Hệ thống này gồm ba tòa thành: Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử cấm thành Huế, lồng vào nhau được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc.

Quần thể di tích Cố đô Huế tiêu biểu cho những thành tựu về kiến trúc, điêu khắc, thẩm mỹ và sức lao động sáng tạo của con người Việt Nam trong suốt một thời gian dài, đặc biệt là trong nghệ thuật và kiến trúc, quy hoạch thành phố và bài trí cảnh quan, được đánh giá như một “kiệt tác đô thị”.

Trong gần 400 năm (1558 – 1945), Huế đã từng là Thủ phủ của 9 đời chúa Nguyễn ở Đàng Trong, là Kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến Kinh đô của quốc gia thống nhất dưới 13 triều vua Nguyễn. Nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích thiên nhiên thợ trời khéo tạc…

Bên cạnh thành quách cung điện lăng tẩm nguy nga tráng lệ, Huế còn lưu giữ nhiều công trình kiến trúc độc đáo gắn liền với chế độ quân chủ nhà Nguyễn, cách phối trí của các khoảng không gian đã tiến đến đỉnh cao của sự hài hòa trong bố cục. Ngoài ra, Huế còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hóa phi vật thể biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam.

Quần thể Di tích Cố đô Huế bao gồm: Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế và Tử Cấm thành Huế.

Kinh thành được vua Gia Long tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Kinh thành Huế bao gồm các di tích: Kỳ Đài Trường; Quốc Tử Giám; Điện Long An; Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế; Đình Phú Xuân; Hồ Tịnh Tâm; Tàng thư lâu; Viện Cơ Mật – Tam Tòa; Đàn Xã Tắc; Cửu vị thần công…

Hoàng thành – khu vực hành chính tối cao của triều đình Nguyễn, nằm bên trong Kinh thành, được giới hạn bởi một vòng tường thành gần vuông, mỗi chiều xấp xỉ 600m với 4 cổng ra vào mà độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cố đô đó là Ngọ Môn. Hoàng thành có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành – nơi dành riêng cho vua và hoàng gia. Hoàng thành và Tử cấm thành thường được gọi chung là Đại Nội. Các di tích trong Hoàng thành gồm: Ngọ Môn; Điện Thái Hòa và sân Đại Triều Nghi; Triệu Tổ Miếu; Hưng Tổ Miếu; Thế Tổ Miếu; Thái Tổ Miếu; Cung Diên Thọ; Cung Trường Sanh; Hiển Lâm Các; Cửu Đỉnh; Điện Phụng Tiên.

Tử cấm thành là vòng tường thành thứ 3 của Kinh đô Huế, giới hạn khu vực làm việc, ăn ở và sinh hoạt của vua và hoàng gia. Các di tích trong Tử cấm thành gồm: Tả Vu và Hữu Vu; Vạc đồng; Điện Kiến Trung; Điện Cần Chánh; Thái Bình Lâu và Duyệt Thị Đường.

Xuyên suốt cả ba tòa thành, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình hàng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ bố trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, khi ẩn khi hiện giữa những sắc màu thiên nhiên, tạo cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản.

Trong quần thể di tích Cố đô Huế có 16 điểm di tích được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới, đó là: Kinh thành ở bờ Bắc sông Hương bảo vệ cho Khu vực hành chính của nhà Nguyễn và là nơi ở của Hoàng Gia; Hoàng thành nằm ở trung tâm của Kinh thành là nơi ở và làm việc của các Vua Nguyễn; Lăng Gia Long; Lăng Minh Mạng; Lăng Thiệu Trị; Lăng Dực Đức; Lăng Tự Đức; Lăng Đồng Khánh; Lăng Khải Định; Văn Miếu – nơi thờ Khổng Tử và dựng bia khắc tên các Tiến sĩ thời Nguyễn; Đàn Nam Giao – nơi vua tế trời; Chùa Thiên Mụ – Biểu trưng Phật giáo của Huế; Hổ Quyền – đấu trường duy nhất còn lại ở Châu Á dành cho voi và hổ; Điện Hòn Chén – nơi thờ Thánh Mẫu; Trấn Bình Đài – án ngữ bảo vệ đường sông của Kinh thành; Trấn Hải Thành – pháo đài trấn giữ mặt biển phía Đông.

Huế còn nổi tiếng với những khu nhà vườn thâm nghiêm ẩn hiện giữa xóm phường bình yên trong lòng Cố đô mang phong cách kiến trúc rất đặc trưng. Điều rất đặc biệt là mỗi khu nhà vườn lại mang bóng dáng Kinh thành Huế thu nhỏ, có bình phong thay núi Ngự, bể nước thay thế cho dòng sông Hương, đôi tảng đá cụm thay cho cồn Dã Viên… Những khu nhà vườn đủ bốn mùa hoa trái, ríu rít chim ca còn là thế giới của những thi nhân mặc khách, là nơi diễn xướng điệu ca Huế…

Quần thể di tích cố đô Huế là một di sản văn hóa độc đáo của Việt Nam và thế giới. Với công cuộc bảo tồn theo những tiêu chuẩn của UNESCO, di sản văn hoá Huế sẽ được giữ gìn – cho Việt Nam và cho thế giới để Huế sẽ mãi mãi là niềm tự hào của nhân loại.

Vào đến với dải đất miền Trung, chúng ta sẽ được lắng nghe những khúc Nam Ai, Nam Bình, những bản đờn ca ngọt ngào như đã ngấm vào sông núi. Những câu hát dẫn ta buộc sẽ phải tìm đến với nơi xuất phát của những giọng ca ấy- mảnh đất của cố đô- Huế. Huế- thành phố đẹp: đẹp của thiên nhiên cây cỏ, đẹp của kiến trúc nghệ thuật và đẹp cả ở con người xứ này.

Huế hay con gọi là Thừa Thiên Huế nằm ở miền Trung đất nước ta. Phía bắc giáp với Quảng Trị, phía Nam giáp với Đà Nẵng, phía Tây dựa vào núi Trường Sơn và nhìn ra ngoài biển về hướng Tây. Từ thủ đô Hà Nội đến đây, khoảng 66 km.

Có tên Huế ngày nay, là bao lần lịch sử sang trang và những kiếp đời đổi dời. Tên gọi ban đầu của Huế là Thuận Hóa. Đến đầu thế kỉ XVI, Thuận Hóa trở thành vùng đất trù phú. Trong đó, Phú Xuân là một làng của Thuận Hóa, được Nguyễn Hoàng chọn làm thủ phủ đầu tiên năm 1687. Một trăm năm sau, Phú Xuân chính thức trở thành kinh đô của nhà nước dưới thời vua Minh Mạng.

Huế là sự kết hợp hài hòa của núi, sông và biển. Đến với Huế, ta có thể đến thăm núi Bạch Mã để đón gió biển; từ đèo Hải Vân mây phú để lắng nghe tiếng sóng biển rì rào. Nơi đây, buổi sáng có thể lên núi Trường Sơn, buổi chiều xuống biển Thuận An và đêm đến, ngủ trên chiếc thuyền xuôi trên sông Hương. Đặc biệt, đến với Huế, du khách không thể bỏ qua những công trình tiêu biểu nơi này. Đó là kinh thành Huế- một hệ thống gồm ba vòng thành từ ngoài vào trong: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành hay còn gọi là Đại Nội. Trong Tử Cấm thành có điện Cần Chánh, là nơi vua làm việc hằng ngày. Còn điện Cần Thành là nơi vua ở và nghỉ ngơi. Kinh thành Huế là một công trình kiến trúc có sự kết hợp đông- tây, được gọi với cái tên đầy ngưỡng mộ: Thành phố thành lũy, thành phố ngôi sao.

Advertisement

Là một người có hứng thú với di tích lịch sử, bạn không thể bỏ qua Lăng Minh Mạng. Lăng được khởi công xây dựng từ năm 1840- trước khi vua Minh Mạng mất một năm. Nơi đây có nét quyến rũ bởi phong cảnh thiên nhiên với cửa vùng núi Cẩm Khê tả ngạn sông Hương, cách thành phố Huế 12 km. Du khách đến với Huế, nhất định phải thử trải nghiệm dạo chơi bằng thuyền trên sông Hương. Nói đến sông Hương là nói đến Huế, vì không có sông Hương thì đâu còn là Huế mộng, Huế mơ…

Gọi là sông Hương vì theo truyền thuyết, dòng sông này chảy qua những rừng cây có hương thơm nên nước sông cũng đượm mùi thơm. Sông Hương bắt đầu từ núi phía Đông Trường Sơn, chảy qua kinh thành Huế với dòng nước trong xanh, hiền dịu. Bắc qua con sông có cầu Tràng Tiền nổi tiếng. Ở đầu phía Bắc có chợ Đông Ba- trung tâm thương mại của thành phố. Sông Hương còn là nơi diễn ra các lễ hội như thả đèn hoa đăng, đua thuyền hay ca Huế trên thuyền Rồng.

Có sông Hương mà không có núi Ngự Bình thì chưa trọn vẹn, chưa gọi là Huế được. Núi Ngự Bình còn có tên gọi khác là Băng Sơn, cách kinh thành Huế khoảng 3km về phía Nam. Nhìn từ xa, Ngự Bình có hình thang, đỉnh tương đối bằng phẳng, độ cao khoảng 104m; uy nghi, cân đối như chiếc yên ngựa nổi bật trên nền trời xanh của Huế. Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình quả là quà tặng vô giá của tạo hóa, làm nên vẻ đẹp sơn thủy hữu tình rất đặc trưng của Huế.

Huế không chỉ được biết đến là mảnh đất của thiên nhiên thơ mộng mà còn là thành phố của những mảnh vườn, vườn hoa và chè xanh mướt. Có thể nhắc đến Kim Long- mảnh đất tụ họp của bao loài hoa thơm trái ngọt từ Bắc vào Nam. Ta hiểu vì sao Hàn Mặc Tử lại có thể viết những câu thơ đẹp như thế, bởi cảnh vật nó vốn như vậy:

Trên những con đường làng quê nơi cố đô là sự xuất hiện của những chiếc nón Huế và những tà áo dài bay trong gió. Đã từ lâu, những chiếc nón bài thơ Huế đã được biết đến với sự độc đáo trong cách trang trí những bài thơ và bức tranh mang đậm phong vị Huế. Ở đó, có cái nghĩa tình nhưng cũng trầm buồn, như đã ăn sâu vào nếp ăn, nếp nghĩ và nếp sống của từng người.

Huế nổi tiếng với văn hóa ẩm thực phong phú và tuyệt vời. Từ những món ăn cung đình cầu kì, tinh tế đến những món chè Huế, món ăn đường phố, … sẵn sàng làm mê đắm tâm hồn người thưởng thức. Huế không chỉ đẹp cái đẹp mộng mơ, thơ mộng mà còn là một thành phố anh hùng, thành phố của lịch sử và văn hiến. Huế là nơi triều đại cuối cùng của Việt Nam thịnh trị. Huế cùng với nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh vì độc lập dân tộc. Cũng chính mảnh đất ấy chứng kiến bao người con nằm xuống mãi mãi, bao ước mơ chưa được gọi tên, bao vết thương chẳng thể xóa nhòa.

Có thể ví Huế là một người con gái đẹp, là người phụ nữ hết mực và cũng là người mẹ anh hùng vĩ đại. Chính những giá trị ấy, những tên gọi ấy sẽ làm cho mảnh đất này bất tử cùng thời gian để sống trong lòng người.

Trở lại với xứ Huế mộng mơ, mang màu sắc cổ kính, trầm buồn với dòng Hương Giang lững lờ “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân”, khiến người lữ khách dễ sinh nhiều xúc cảm bâng khuâng. Đặc biệt tại cố đô, những nét đặc sắc trong nghệ thuật kiến trúc Cung đình Huế, lại càng bộc lộ rõ nét nền văn hóa truyền thống Việt Nam, cùng với một triều đại trị vì kéo dài 143 năm với nhiều những suy vi biến đổi mạnh mẽ nhất trong cả lịch sử của dân tộc. Bước chân vào cố cung, là bước chân vào một nơi lắm vẻ vang một thời của những ông hoàng bà chúa, đồng thời cũng là nơi chứng kiến sự suy tàn, héo úa của chế độ quân chủ phong kiến, khiến nhiều người không khỏi chạnh lòng, xót xa, dẫu rằng đó đã là điều tất yếu trong dòng chảy lịch sử của dân tộc.

Kinh thành Huế còn có tên gọi khác là Thuận Hóa kinh thành, ngày nay người ta vẫn thường gọi là Đại Nội Huế, hoặc cố cung Huế. Đây là nơi đóng đô của nhà Nguyễn trong suốt 143 năm bắt đầu từ năm 1802 đến năm 1945, khi vua Bảo Đại chính thức thoái vị. Hiện tọa lạc tại trung tâm thành phố Huế, mặt phía Nam là đường Trần Hưng Đạo và đường Lê Duẩn; hướng tây giáp với đường Lê Duẩn; mặt phía bắc giáp với đường Tăng Bạt Hổ;còn mặt phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Với vị trí đắc địa khi nằm gọn bên bờ Bắc của sông Hương, phần tiền án là núi Ngự Bình cao gần 100m, đỉnh tròn dáng đẹp, che chắn trước mặt Kinh thành Huế, như một bức bình phong tự nhiên.

Hai bên là cồn Cồn Hến và Cồn Dã Viên, tượng trưng cho Thanh Long, Bạch Hổ hộ pháp làm thành thế rồng chầu hổ phục, thể hiện sự thần phục, vẻ uy nghiêm tối cao của vương quyền nhà Nguyễn. Thêm vào đó kinh thành nằm bên cạnh dòng sông Hương với lịch sử ngàn đời, càng tăng thêm phần sinh khí mà theo quan niệm phong thủy thì khúc sông ấy được gọi là minh đường thủy tụ. Có thể nói rằng, mảnh đất nơi Kinh thành Huế tọa lạc mang đầy đủ những vẻ đẹp địa thế tuyệt vời và thuận lợi, phong cảnh sơn thủy hòa hợp hữu tình, gần núi, cạnh sông, giữa cồn, quy tụ long mạch và sinh khí 4 phương, nếu so với Hoàng thành Thăng Long thì cũng không kém là bao. Kinh thành Huế được vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh) bắt đầu cho khảo sát và xây dựng vào năm 1803, ngay khi triều Nguyễn được thành lập một năm, và chính thức hoàn thành vào năm 1832, dưới triều vua Minh Mạng.

Kinh thành Huế được xây dựng theo kiến trúc Vauban, với đặc trưng là lối kiến trúc thành lũy, nhiều vòng thành để phục vụ cho việc phòng thủ mang tính toàn diện, gồm tường thành, vũ khí, hệ thống kênh rạch, hầm hào được lồng ghép vào nhau, đảm bảo sự an toàn tuyệt đối cho phần Đại Nội bên trong. Nằm trên bờ Bắc của sông Hương với tổng diện tích khoảng 520ha, mặt kinh thành xoay về hướng Nam, hướng được xem là tốt nhất trong các hướng khi xây dựng công trình kiến trúc, lại càng phù hợp khi đây là nơi ở của vua chúa, bởi theo quan niệm của Kinh Dịch rằng: “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ”, ý chỉ người quân chủ nhìn về hướng Nam để cai trị thiên hạ.

Vòng thành ngoài cùng có chu vi xấp xỉ 10km, cao 6,6m, dày 21m, được xây kiểu gấp khúc, kết hợp với các pháo đài cách đều nhau, thời kỳ đầu được đắp hoàn toàn bằng đất, xong đến đời vua Gia Long thì được nâng cấp xây lại bằng gạch. Ngoài ra để tăng thêm tính phòng hộ, bên ngoài vòng thành còn được bao quanh bởi một hệ thống kênh rạch dài 7km. Có thể nói rằng, với lối xây dựng này, vòng thành đã trở thành lớp áo giáp vô cùng kiên cố và vững chắc bao bọc lấy Hoàng Thành và Tử Cấm Thành ở bên trong. Thành gồm có mười cửa chính thông về các hướng khác nhau, phục vụ cho việc giao thông và để đề phòng những lúc có biến việc tháo chạy được dễ dàng. Ở mặt trước của thành, hay cửa chính hướng Nam có một cột cờ lớn, còn gọi là Kỳ Đài đối diện với Ngọ Môn quan, cửa chính vào Hoàng thành.

Bên trong vòng thành là khu vực dân cư, nhà ở của các quan lại đại thần và quan trọng nhất thể hiện được nét đặc sắc của kiến trúc cố cung ấy là Hoàng thành, bao gồm có 4 cửa nằm ở bốn hướng là Hiển Nhơn, Chương Đức, Hòa Bình và Ngọ Môn quan là cửa chính. Tổng thể Hoàng Thành và Tử Cấm thành vẫn được gọi chung là khu vực Đại Nội, được xây dựng trên một khu đất gần vuông, chu vi khoảng 2400m, tường thành cao 4m, dày 1m, xây hoàn toàn bằng gạch. Bên trong có Điện Thái Hòa là nơi vua thiết triều cùng các đại thần, các khu vực miếu thờ của hoàng gia như Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân, và quan trọng nhất là Tử Cấm Thành, nơi ăn chốn ở của hoàng thất bao gồm: điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa. Ngoài ra còn có các di tích đáng chú ý như: Quốc Tử Giám, Điện Long An, Đình Phú Xuân, Hồ Tịnh Tâm, Tàng Thư Lâu, Viện Cơ Mật – Tam Tòa, Đàn Xã Tắc và Cửu Vị Thần Công (9 khẩu thần công được đúc dưới thời vua Gia Long, kỷ niệm chiến thắng nhà Tây Sơn của Nguyễn Ánh).

Tuy nhiên sau hai cuộc chiến tranh ác liệt hầu như các di tích này đều bị phá hủy hoàn toàn, hiện nay chỉ còn spts lại một số ít, và đang được nhà nước cố gắng khôi phục, trùng tu. Bên cạnh những công trình phục vụ sinh hoạt của hoàng thất thì trong Đại Nội còn đáng chú ý với những lăng tẩm nằm rải rác trong khắp hoàng thành tại những vị trí phong thủy hữu tình, thơ mộng, với lối kiến trúc đậm nét phương Đông: sơn triều thủy tụ, tiền án hậu chẩm, tả long hữu hổ,… To lớn, khang trang nhất là Lăng Tự Đức, độc đáo, với vẻ đẹp lai tạp Đông Tây là lăng Khải Định. Tất cả đều là những cảnh điểm đáng để tham quan và chiêm ngưỡng, thể hiện sự vẻ vang, rực rỡ của một hoàng triều tồn tại suốt 143 năm cho đến ngày suy tàn.

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Động Phong Nha – Kẻ Bàng Dàn Ý &Amp; 8 Bài Thuyết Minh Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 8

I. Mở bài:

– Nằm trong núi đá vôi, từng nhiệt đới…

– Hệ thống hang động đẹp lộng lẫy…

– Con sông ngầm dài nhất thế giới.

II. Thân bài:

* Vị trí – đặc điểm:

– Núi đá vôi, Kẻ Bàng, cách Đồng Hới 50km về phía Tây…

– Nhiều nhánh, dài trên 20k,…

– Mới khám phá nhánh dài nhất là một phần sông ngầm Nậm Aki, sông Son là một phần lộ ra mặt đất.

– Động Phong Nha, Động Răng Gió.

* Du lịch:

– Chèo thuyền.

– Mùa mưa sông Son dâng nước cao khuất cửa hang không thể tham quan.

* Tương truyền trong lịch sử:

– Hơn 100 năm trước, vua Hàm Nghi ẩn mình nơi đây cùng cận thần ra chiếu Cần Vương.

* Miêu tả động:

– Cửa động rộng 20m, cao 10m, có nhũ đá….

– Động chính gồm: 14 buồng, nối thành hành lang dài 1500m….

– Ngược dòng lên 800m từ cổng là hang nước cạn….

III. Kết bài:

– Động nằm trong rừng nguyên sinh Kẻ Bàng: còn nguyên sơ, tinh khôi….

– Tham quan, bảo tồn món quà mà thiên nhiên đã ban tặng.

Đi dọc đất nước hình chữ S có vô số những cảnh đẹp tuyệt trần, nếu ở miền Trung chắc hẳn ai cũng biết động Phong Nha được thế giới công nhận là tuyệt tác kì quan thiên nhiên độc đáo, ấn tượng.

Động Phong Nha thuộc vùng núi đá vôi Kẻ Bàng, xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Động Phong Nha sở hữu vẻ đẹp độc đáo mà lãng mạn. Động Phong Nha được bao quanh bởi các cánh rừng rậm rạp bảo vệ động một cách tự nhiên.

ó hai cách để bạn đi đến động, nếu đi đường thuỷ thì ngược dòng sông Gianh đến đoạn sông Gianh gặp sông Son rồi cứ theo sông Son mà vào động Phong Nha. Nếu du khách thích đi đường bộ thì cứ đi theo tỉnh lộ số 2 đến bến sông Son sau đó phải đi xuồng máy từ bến sông Son vào cửa hang Phong Nha mất thời gian khoảng ba mươi phút. Khi đi du khách sẽ có cơ hội ngắm nhìn cảnh quan thiên nhiên với dòng sông, núi đá vôi đẹp, cánh đồng…mọi thứ đều rất đơn sơ, hoang dã.

Đến động Phong Nha du khách sẽ thăm quan bên trong bằng thuyền, cửa động đủ rộng đủ thuyền đi vào, trong động hơi tối nên cần đèn chiếu sáng, du khách có thể quan sát cảnh quan trong động chi tiết nhất. Trong động chia làm động khô và động nước. Động khô là những vòm đá trắng vân nhũ nhiều màu sắc được tạo thành bởi những dòng sông ngầm đã cạn hết nước từ hàng ngàn năm trước. Động nước vẫn còn nước chảy từ các con sông ngầm trong lòng đất, nước rất sạch nhưng lại khá sâu.

Đến với động chính Phong Nha sẽ có nhiều nối với nhau, du khách sẽ được đi đến từng buồng bằng hành lang riêng. Khám phá từng địa điểm đến hang cuối cùng là hang thứ mười bốn bạn sẽ thám hiểm các hang sâu theo các hành lang hẹp. Những hang sâu bên trong chủ yếu dành cho các nhà khoa học chứ du khách không nên đi vào. Ẩn sâu các hang động còn rất nhiều điều khám phá bí ẩn.

Thú vị nhất với du khách đó chính là đi thuyền khám phá, đi đến đâu bạn sẽ kinh ngạc bởi vẻ đẹp kỳ ảo, huyền bí của không gian động. Dưới ánh sáng của đèn khối nhũ đá hiện lên với nhiều màu sắc, hình khối nhìn lung linh, huyền ảo như chốn bồng lai. Trên vách động đôi khi bạn còn thấy các nhánh phong lan rừng xanh mướt mọc vươn lên sức sống rất mạnh mẽ. Trong hang có các bãi cát du khách đến đây chụp hình, vui chơi lưu lại các kỉ niệm đẹp khi tham quan. Điều thú vị nhất khi khám phá đó là không gian trong động đẹp, lung linh, lắng nghe tiếng nước chảy róc rách, không khí dễ chịu, mát mẻ tất cả sẽ mang đến cho bạn cảm giác không nơi nào có được.

Nhắc đến Quảng Bình “vương quốc của những hang động” ta không thể không nhắc đến vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng với hệ thống hang động đẹp và rộng bậc nhất Việt Nam, lập nhiều kỷ lục thế giới như hang Sơn Đoòng được coi là địa danh đầu tiên và duy nhất được ba tổ chức thế giới xác lập kỷ lục hang động tự nhiên lớn nhất. Trong đó có một hang động nằm trong những hang động đẹp nhất thế giới, được mệnh danh là “kỳ quan đệ nhất động” phải kể đến động Phong Nha.

Động Phong Nha thuộc hệ thống hang động của vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng nằm tại huyện Bố Trạch, và Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500km về phía nam, động gồm nhiều hang nằm trên sông Son, sông Chày. Tuy động Phong Nha được hình thành do những kiến tạo địa chất xảy ra trong lòng dãy núi đá vôi Kẻ Bàng. Hệ thống đứt gãy chằng chịt trên mặt đá vôi đã tạo điều kiện cho nước dễ thấm vào các khối đá vôi. Sự xâm thực đã gặm mòn, hòa tan, rửa trôi đá vôi trong hàng triệu năm. Qua đó nó đã tạo nên một hang động ăn sâu trong núi đá vôi.

Cách đây hơn 400 triệu năm vào thời kỳ Đại Cổ Sinh nhưng qua nơi đây còn gắn liền với một truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian. Truyền thuyết kể rằng ngày xưa khi Thiên Đàng và Hạ Giới nối với nhau bởi cổng trời, có một Tiên sư Đạo Pháp xin Thiên Đế xuống Hạ giới để rao giảng đạo pháp, mở mang thêm trí đức lành cho dân gian, nhân dân Hạ giới vô cùng kính trọng và yêu mến ông, đặc biệt là các vị nha quan chính vì vậy khi Tiên sư đạo pháp về trời, thạch động mà Tiên sư thường giảng pháp và giáo hóa cho dân làng và quan lại được nhân dân đặt tên là động Phong Nha, các nhà quan có tấm lòng thành kính với Tiên sư được nhân dân lập đền thờ trước cửa động và đặt tên là Tiên sư tự cốc.

Là món quà quý giá mà tạo hóa ban tặng, phong cảnh thiên nhiên động Phong Nha chính vì thế mang vẻ hữu tình, nên thơ và vô cùng độc đáo. Động Phong Nha dài 7.729 m, có 14 hang, có dòng sông ngầm dài 13.969 m. Các thạch nhũ trong động trải qua hàng triệu năm kiến tạo từ nước có hòa tan đá vôi, từ đó tích tụ thành những hình tượng lạ mắt như hình sư tử, hình ngai vàng, hình đức Phật v.v. Nơi đây được chia làm hai động: động khô và động nước. Ở động nước, nơi đây gồm ba hang: Bi Ký, Cô Tiên, Cung Đình với những thạch nhũ nhiều màu sắc, hình dáng và nét hùng vĩ của những buồng, hành lang đá vôi phủ đầy thạch nhũ.

Tiếp đến là động khô, nổi bật nhất ở nơi đây phải kể đến hang Tiên Sơn, là chỉnh thể thống nhất với động Phong Nha, tọa lạc ở độ cao khoảng 200m trên trần động Phong Nha, động Tiên Sơn có chiều dài là 980m và không ăn chung với động Phong Nha. Để lên hang Tiên Sơn, ta phải men theo vách núi quanh co uốn lượn, nơi đây mang một vẻ hoang sơ, kỳ vĩ với nhiều nhũ đá rủ xuống, nhiều măng đá “mọc” từ dưới lên tạo thành các hình thù kỳ lạ. Theo các nhà khoa học thuộc Hội hang động Hoàng gia Anh, động này được kiến tạo cách đây hàng chục triệu năm, khi một dòng nước chảy qua quả núi đã đục rỗng, bào mòn núi đá vôi Kẻ Bàng.

Sau đó, do địa chất thay đổi, khối đá vôi đổ sụp, chặn dòng chảy và làm nên động khô Tiên Sơn. Ngoài ra động khô còn nổi tiếng với động Thiên Đường “hoàng cung trong lòng đất”, là một trong những trong những kỳ quan tráng lệ và huyền ảo bậc nhất thế giới, được coi là hang động khô dài nhất thế giới, có có chiều dài 31,4km, chiều rộng dao động từ 30 đến 100m, nơi rộng nhất 150m và có chiều cao từ đáy lên trần động khoảng 60m. Những thạch nhũ ở nơi đây có nhiều hình thù hơn động nước Phong Nha. Nằm trên một nhánh sông khác, sông Chày, Hang Tối là một trong những nhánh hang thuộc hệ thống động Phong Nha, có cửa hang rộng 20 mét, cao 40m, vừa là hang nước, vừa là hang khô với chiều dài 5.258m, cao 80m, tên gọi của hang là do đoàn thám hiểm hang động Hoàng gia Anh khi đến thám hiểm vào năm 1990 và 1992 đặt bởi bên trong hang “ánh sáng tối” như đặc quánh lại tưởng như có thể chạm vào được.

Không chỉ có những nét đẹp độc đáo mà thiên nhiên ban tặng cho động Phong Nha, nơi đây còn mang những giá trị đặc sắc như giá trị địa chất – địa mạo, giá trị du lịch cao với lượng lớn khách đổ về tham quan đem lại nguồn lợi nhuận khổng lồ cho địa phương. Ngoài ra còn có giá trị về khảo cổ lịch sử bởi những văn tự chữ viết người Chăm, động Phong Nha là nơi vua Hàm Nghi trú ngụ trong thời kỳ thực hiện Chiếu Cần Vương kháng chiến chống thực dân Pháp . Động Phong Nha cũng như vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng chính là niềm tự hào của người dân đất Quảng Bình nói chung và người dân Việt Nam nói riêng, quảng bá vẻ đẹp thiên nhiên tạo hóa, sinh vật nước ta ra ngoài thế giới.

Việt Nam có rất nhiều những cảnh quan, những khu di tích đẹp, độc đáo được bạn bè quốc tế công nhận. Nói đến những khu di tích nổi tiếng bởi phong cảnh đẹp không thể không kể đến di tích động Phong Nha.

Động Phong Nha thuộc vùng núi đá vôi Kẻ Bàng, xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.Động Phong Nha với vẻ đẹp hùng vĩ mà không kém phần thi vị, lãng mạn. Động Phong Nha được coi là “ Thiên Nam đệ nhất động” của Việt Nam, bao quanh động là những cánh rừng nhiệt đới rậm rạp, tươi tốt. Để vào động Phong Nha, du khách phải đi qua dòng sông Son khoảng hơn ba mươi phút.Động Phong Nha là một vùng núi đá rộng lớn, hùng vĩ. Du khách chỉ có thể vào tham quan động bằng một phương tiện duy nhất- đó là thuyền.

Đến trước cửa động ta sẽ thấy một lối vào rộng từ hai mươi đến hai mươi lăm mét, chiều cao khoảng mười mét.Trong động tương đối tối bởi nó bị núi đá che khuất ánh nắng mặt trời, mặt khác vị trí mà du khách sẽ đi vào đó là trong lòng của động. Hai bên đường được lắp đặt hệ thống đèn,nhờ đó mà du khách có thể quan sát rõ nét từng hình thù, cảnh quan trong động.

Động Phong Nha có tổng chiều dài lên đến 7.729 mét, cao khoảng 50 mét với rất nhiều nhánh hang lớn nhỏ khác nhau. Trong động, quang cảnh hùng vĩ sẽ hiện ra trước mắt của du khách,những nhũ thạch ngàn năm tạo thành những hình dạng vô cùng độc đáo, màu sắc sáng tối khác nhau. Bơi thuyền ngắm khung cảnh kì vĩ nơi đây tạo cảm giác lạc vào xứ sở của thần tiên vậy. Người xưa tương truyền rằng,những nhũ đá rủ xuống trong lòng hang đã tạo nên cái tên “ Phong Nha” ngày nay, có nghĩa là gió luồn qua kẽ răng.

Động Phong Nha nổi tiếng với những khối nhũ thạch biến hóa độc đáo, chính những hình dạng độc đáo đó đã khiến người ta liên tưởng và đặt cho nó những cái tên như: sư tử, kì lân, vô chầu, cung đình hay tượng phật… Đi vào trong động khoảng một ki lô mét là đến hang Bí, đây là một nhánh phụ nằm sâu trong động Phong Nha. Đây là một hang có vẻ đẹp vô cùng độc đáo,nét đẹp tự nhiên, hoang sơ sẽ tạo ra cảm giác ngỡ ngàng cho du khách khi đặt chân đến đây.

Với vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ mà tự nhiên,tạo hóa đã ban tặng cho Động Phong Nha thì động Phong Nha đã được hiệp hội Hoàng Anh bình chọn là một trong những hang động đẹp nhất trên thế giới với bảy tiêu chí: Hang động có cửa hang cao và rộng; có bãi cát, bãi đá ngầm đẹp nhất, có sông ngầm đẹp nhất, có hệ thống thạch nhũ kỳ ảo và tráng lệ nhất có các hang khô cao và rộng, có Hồ nước ngầm sâu và đẹp, có nước dài nhất. Đây sẽ là một địa điểm du lịch, tham quan lí tưởng cho du khách trong và ngoài nước.

Động Phong Nha kẻ bàng là nơi thu hút nhiều khách du lịch tham gia và nghỉ dưỡng những giá trị to lớn để lại cho mỗi người đó là những giây phút thư thái và thoải mái nhất, chúng ta cảm nhận được những giây phút khỏe mạnh và có những cái nhìn rất sâu sắc và có ý nghĩa dành cho mỗi con người, những hình ảnh của những đầm tích đá vôi cũng xuất hiện với số lượng lớn, nó nằm trong khu vực Quảng Bình, nơi có rất nhiều những hang động, ở đây du khách có thể ngắm nhìn và cảm nhận nó mạnh mẽ và da diết nhất, những hình ảnh của động Phong Nha làm cho con người như đang lạc vào thế giới thần tiên, nó mơ mộng huyền ảo nhưng cũng để lại những cảnh vật rất có giá trị và có ý nghĩa mạnh mẽ và sâu sắc nhất đối với mỗi con người.

Những thách dung nham của núi cũng xuất hiện rất đậm nét trong động này, nó không chỉ để lại những giá trị to lớn và có ý nghĩa mạnh mẽ nhất của con người khi đem dành tặng cho nó, mỗi hình ảnh đều thể hiện được cái nhìn rất sâu sắc về hiện tượng và sự vật xung quanh nó, với hang động trầm tích của những nham thạch xuất hiện nơi đây.

Động Phong Nha Kẻ Bàng là nơi thu hút rất nhiều khách du lịch đến đây tham quan và nghỉ dưỡng nó thu hút mạnh mẽ được lượng khách đông và đem lại giá trị cho cảnh quan.

Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng là một vườn quốc gia tại huyện Bố Trạch, và Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam. Vườn quốc gia này giáp khu bảo tồn thiên nhiên Hin Namno ở tỉnh Khammouan, Lào về phía tây, cách Biển Đông 42 km về phía đông kể từ biên giới hai quốc gia. Phong Nha – Kẻ Bàng nằm ở một khu vực núi đá vôi rộng 200.000 ha thuộc lãnh thổ Việt Nam, khu vực lãnh thổ Lào tiếp giáp vườn quốc gia này cũng có diện tích núi đá vôi 200.000 ha. Diện tích vùng lõi của vườn quốc gia là 85.754 ha và một vùng đệm rộng 195.400 ha. Vườn quốc gia này được thiết lập để bảo vệ một trong hai vùng carxtơ lớn nhất thế giới với 300 hang động và bảo tồn hệ sinh thái bắc Trường Sơn ở khu vực Bắc Trung Bộ Việt Nam.. Đặc trưng của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang động, các sông ngầm và hệ động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ thế giới. Các hang động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn 80km nhưng các nhà thám hiểm hang động Anh và Việt Nam mới chỉ thám hiểm 20km, trong đó 17km ở khu vực Phong Nha và 3km ở khu vực Kẻ Bàng.

Kiến tạo carxtơ của Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng được hình thành từ 400 triệu năm trước, từ thời kỳ Đại Cổ Sinh do đó là carxtơ cổ nhất ở châu Á. Trải qua nhiều thay đổi lớn về địa tầng và địa mạo, địa hình khu vực này hết sức phức tạp. Phong Nha – Kẻ Bàng phô diễn các bằng chứng ấn tượng về lịch sử Trái Đất, giúp nghiên cứu lịch sử hiểu được lịch sử địa chất và địa hình của khu vực. Khu vực Phong Nha – Kẻ Bàng có lẽ là một trong những mẫu hình riêng biệt và đẹp nhất về sự kiến tạo carxtơ phức tạp ở Đông Nam Á.

Giấu mình trong núi đá vôi được che chở bởi những cánh rừng nhiệt đới, Phong Nha giờ đây đã trở nên nổi tiếng bởi sự hào phóng của tạo hoá đã ban tặng cho vùng đất này một hệ thống hang động thật lộng lẫy với con sông ngầm được xác định là dài nhất thế giới.

Động nằm ở vùng núi đá vôi Kẻ Bàng, cách thị xã Ðồng Hới 50 km về phía tây bắc. Từ Ðồng Hới, đi ô tô đến xã Sơn Trạch, sau đó đi thuyền trên sông Son, khoảng 30 phút thì đến động. Chỉ cách đây vài năm, đây còn là một con đường đất đỏ, mưa thì lầy lội, nắng thì bụi bẩn. Nơi mà một thời bom đạn chiến tranh đã không chừa một tấc đất, một nhành cây, một ngọn cỏ. Nhưng giờ đây, chính con đường này đã thổi một luồng sinh khí mới cho bộ mặt của cả vùng núi hoang sơ này.

Nếu như đấng tạo hoá đã tạo ra con người thì hình như chính tạo hoá lại che chở cho chúng. Trải qua bao cuộc chiến, động Phong Nha vẫn còn đó, nguyên sơ như hàng triệu năm về trước.

Những làng quê yên bình nằm xen kẽ giữa những lùm tre thấp thoáng mái nhà nâu đỏ bên hữu ngạn sông Son. Những cô thôn nữ đứng gọi đò bên bến nước, những chiếc thuyền đưa khách ngược xuôi, chào hỏi nhau bằng ngôn ngữ của nhiều vùng làm sống động cả bến sông. Thuyền cập bến cũng là lúc du khách bắt đầu một cuộc hành trình khám phá một mê hồn cung giữa chốn đời thường.

Động Phong Nha có rất nhiều nhánh với chiều dài lên đến khoảng trên 20 km, nhưng hiện nay người ta mới khám phá nhánh dài nhất là một phần của con sông ngầm có tên là Nậm Aki mà sông Son là phần lộ ra mặt đất, nó chui ngầm dưới đất ở vùng núi Pu-Pha-Ðam cách đó hơn 20km về phía Nam. Trước cửa động, cảnh núi non sông nước càng thêm quyến rũ, thiên nhiên hùng vĩ với vô vàn hình ảnh kỳ thú hiện ra như khêu gợi trí tưởng tượng của con người. Người ta đã khéo đặt tên cho cảnh đẹp nơi đây là Động Phong Nha (Động Răng Gió). Vào mùa nước lớn. nước sông Son dâng cao che khuất cửa hang, thuyền du lịch không vào đây được. Tương truyền hơn một trăm năm về trước, ông vua trẻ Hàm Nghi đã ẩn mình ở đây cùng một số cận thần và ra lời kêu gọi Cần Vương.

Cửa động rộng khoảng 20 mét, cao 10 mét, có nhũ đá lô nhô. Bơi thuyền qua cửa hang, động rộng như một cái bát úp trên mặt nước. Nước sông trong veo và phẳng lặng như mặt gương, càng vào sâu ánh sáng càng nhạt dần rồi mất hẳn. Xen lẫn với tiếng mái chèo như có tiếng chiêng “bi…tùng…bi” vẳng lên, người bản địa cho rằng đó là âm nhạc trong tiệc rượu của Thần Núi vọng ra… tất cả hợp thành tiếng nhạc, lúc âm u như tiếng chiêng, lúc bập bùng như tiếng trống. Động chính của động Phong Nha gồm 14 buồng nối liền bởi một hành lang nước dài đến 1500m. Từ buồng thứ 14 ta còn có thể theo những hành lang hẹp khác đi vào sâu hơn nữa đến những buồng cũng to rộng không kém nhưng có phần nguy hiểm hơn, nơi mà quá trình phong hoá đá vôi vẫn còn tiếp tục. Thuyền ngược dòng độ 800m thì đến chỗ cạn gọi là Hang nước cạn: nước biến đi nhường chỗ cho đá cát. Nhũ đá từ trên rủ xuống, măng đá từ dưới nhô lên tua tủa như cây rừng với những hình dáng kỳ lạ kích thích trí tưởng tượng.

Phong Nha không giống như những điểm du lịch khác ở Việt Nam, động nằm trong khu rừng nguyên sinh Kẻ Bảng dường như còn nguyên sơ và tinh khôi. Trong con mắt của những vị du khách du lịch, những cư dân bản địa nơi đây mang một phong cách rất riêng “Họ cư xử thân thiện và tình cảm mang tính cách của người nông dân thuần khiết hơn là nhìn nhân du khách như là một cơ hội để tìm kiếm nguồn tài chính. Ðiều này càng làm cho Phong Nha thêm hấp dẫn khách du lịch”.

Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng nằm ở phía Bắc dãy núi Trường Sơn (tọa độ từ 17°21′ tới 17°39′ vĩ bắc và từ 105°57′ tới 106°24′ kinh đông), thuộc địa phận các xã Tân Trạch, Thượng Trạch, Phúc Trạch, Xuân Trạch và Sơn Trạch thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Cách thành phố Đồng Hới khoảng 50km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam. Vườn quốc gia này giáp khu bảo tồn thiên nhiên Hin Namno ở tỉnh Khammouan, Lào về phía tây, cách Biển Đông 42 km về phía đông kể từ biên giới của hai quốc gia. Phong Nha- Kẻ Bàng là một vùng khí hậu trong lành, mát lạnh quanh năm trung bình chỉ 20 – 240C được đánh giá là một trong hai vùng núi đá vôi rộng nhất thế giới, với diện tích trên 200.000 ha (trong đó, diện tích vùng lõi là 85.754 ha và một vùng đệm rộng 195.400 ha). Đặc trưng của khu vườn quốc gia này là những kiến tạo đá vôi dạng karst hàng triệu năm tuổi với hơn 300 hang động và hệ thống các sông ngầm. Hàng trăm loài động, thực vật quý hiếm đang tồn tại, trong đó có nhiều loài có tên trong sách đỏ Việt Nam và thế giới, chính là nguồn cảm hứng cho du khách và các nhà khoa học về đây khám phá.

Tên gọi vườn quốc gia này ghép từ hai thành phần: tên động Phong Nha và tên khu vực rừng núi đá vôi Kẻ Bàng. Theo Lê Quý Đôn thì Phong Nha là tên một làng miền núi ngày xưa (nay là thôn Phong Nha, xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch). Có ý kiến khác lại cho rằng tên gọi Phong Nha xuất phát từ hình ảnh những ngọn núi nằm thành từng dãy đều đặn như hình ảnh các quan đứng thành hàng trên sân chầu hay ở quan thự, người ta đã lấy chữ Phong Nha theo chữ Hán để đặt tên cho động Phong Nha. Động Phong Nha còn có tên khác như Động Thầy Tiên, Núi Thầy, Động Troóc, Hang Chùa.

Phong Nha – Kẻ Bàng được ví như một bảo tàng địa chất khổng lồ có giá trị và mang ý nghĩa toàn cầu bởi cấu trúc địa lý phức tạp, tập hợp nhiều loại đá khác nhau như sa thạch, thạch anh, phiến thạch, đá vôi chứa silic, đá mac – nơ, đá granodiorit, đá diorite, đá aplite, pegmatite…

Phong Nha – Kẻ Bàng cũng chứa đựng lịch sử phát triển địa chất phức tạp, lâu dài từ 400 triệu năm trước của trái đất. Trải qua các giai đoạn kiến tạo quan trọng và các pha chuyển động đứt gãy, phối tảng, uốn nếp đã tạo ra các dãy núi trùng điệp và các bồn trầm tích bị sụt lún. Những biến động trên cũng đã góp phần tạo nên sự đa dạng về địa chất, địa hình, địa mạo.

Vùng đá vôi Phong Nha – Kẻ Bàng có những đặc trưng toàn cầu trong nhiều giai đoạn phát triển từ Palaeozoic (đại cổ sinh – chừng 400 triệu năm trước) đến giai đoạn cổ sinh muộn kỷ Cacbon và Pecmi (340 – 240 triệu năm trước). Một đặc điểm mang tính đặc thù ở đây là hệ thống sông chảy ngầm và các hang động trong lòng núi đá vôi.

Vùng địa mạo phi đá vôi có đặc điểm chung là núi thấp với thảm thực vật phủ trên bề mặt. Quá trình bào mòn tạo ra các thềm dọc theo các thung lũng của các sông Son, sông Chày hay tại các bờ của các khối núi đá vôi ở vùng trung tâm. Vùng địa hình chuyển tiếp là những dạng khác nhau xen giữa các núi đá vôi.

Bên cạnh giá trị về lịch sử địa chất, địa hình, địa mạo, Phong Nha – Kẻ Bàng còn được thiên nhiên ưu đãi ban tặng cho những cảnh quan kì bí, hùng vĩ. Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng ẩn chứa bao điều bí ẩn của tự nhiên, những hang động như những lâu đài lộng lẫy trong lòng núi đá vôi được tạo tác từ hàng triệu năm trước. Khu Phong Nha – Kẻ Bàng có một quần thể hơn 300 hang động lớn nhỏ phong phú, kỳ vỹ được mệnh danh là “ Vương quốc hang động”, nơi tiềm ẩn nhiều điều kỳ lạ và hấp dẫn, là thiên đường cho các nhà khoa học hang động, các nhà thám hiểm và du lịch.

Đến nay, 20 hang động với tổng chiều dài trên 70km đã được Đoàn khảo sát Hoàng gia Anh phối hợp với Khoa Địa lý Đại học Quốc gia Hà Nội khảo sát có hệ thống, kỹ lưỡng và đã được công bố trên Tạp chí Toàn cảnh và Dư luận-số 48, tháng 7 năm 1994, được đánh giá là một trong những cảnh quan đẹp nhất với các đặc trưng: có sông ngầm đẹp nhất, có cửa hang cao và rộng nhất, các bãi cát, bãi đá ngầm đẹp nhất, có hồ nước ngầm đẹp nhất, có hang khô rộng và đẹp nhất, có hệ thống thạch nhũ kỳ ảo và tráng lệ nhất, là hang nước dài nhất.

Các hang động này có thể chia thành ba hệ thống chính: hệ thống động Phong Nha, hệ thống hang Vòm và hệ thống hang Rục Mòn. Hệ thống động Phong Nha có tổng chiều dài trên 40km bắt nguồn từ phía nam của vùng núi đá vôi Kẻ Bàng. Cửa chính của hệ thống động này là động Khe Ry và động én nằm ở độ cao khoảng 300m so với mặt nước biển. Các hang trong hệ thống này phân bổ theo dạng cành cây chạy theo hướng đông bắc – tây nam. Hệ thống hang Vòm có tổng chiều dài trên 30km bắt nguồn từ hang Rục Cà Roòng, nằm ở độ cao 360m so với mặt nước biển và kết thúc là hang Vòm. Hệ thống hang Vòm nằm trên trục có hướng chung là nam – bắc. Sông Rục Cà Roòng lúc ẩn mình trong núi đá, lúc lại xuất hiện trên những thung lũng hẹp và sâu, cuối cùng đổ ra sông Chày ở cửa hang Vòm. Hệ thống hang Rục Mòn nằm ở địa phận huyện Minh Hóa cũng là một trong những hang động lớn nhưng chưa được khai thác nhiều.

Động Phong Nha ( Động nước ) là danh thắng tiêu biểu nhất của hệ thống hang động thuộc quần thể danh thắng Phong Nha – Kẻ Bàng. Tổng chiều dài 7.729 mét, có 14 hang, có dòng sông ngầm dài 13.969 mét lung linh kỳ ảo và rực rỡ nhất. Cửa động cao khoảng 10 mét, rộng 25 mét. Từ phía trên, nhũ đá nhỏ xuống trông như những giọt sương khổng lồ đang tan chảy…

Bên cạnh đó là Động Tiên Sơn ( Động khô) nằm ở độ cao 200m, theo các nhà địa lý học, từ xa xưa dòng sông ngầm đã cạn nước, chỉ còn lại những vòm đá trắng và cột đá xanh ngọc bích. Các thạch nhũ trong động Phong Nha trải qua hàng triệu năm kiến tạo từ đá vôi dạng karst, bị nước mưa thẩm thấu, hoà tan và chảy xuống từ nóc hang tạo thành những nhũ đá vô cùng lạ mắt như sư tử, ngai vàng, Đức Phật… Nước mưa tiếp tục rơi xuống đáy hang, kết canxi tạo ra măng đá. Những phiến đá, măng đá, nhũ đá, sông ngầm muôn hình muôn vẻ lung linh kỳ vĩ. Dường như Phong Nha là nơi hội tụ tất cả vẻ đẹp hoàn mỹ nhất của thiên nhiên và là nơi trí tưởng tượng được thăng hoa nhất.

Ngoài ra còn có động Thiên Đường được được Hiệp hội hang động Hoàng gia Anh đánh giá là hang động khô dài nhất Châu Á, một trong những hang động kỳ vĩ nhất mà đoàn từng khảo sát nhiều hang động trên thế giới.Động Thiên đường có cấu trúc kỳ vĩ, tráng lệ và huyền ảo khiến những người khám phá hang động liên tưởng về một thiên cung nơi trần thế (vì vậy mà động được đặt tên là Thiên đường).

Đặc biệt, gần đây, đoàn thám hiểm người Anh mới phát hiện ra một trong những hang mới nhất đó là Sơn Động. Hang này được cho là hang động lớn nhất thế giới. Khoang lớn nhất ở Sơn Động có chiều dài hơn 5km, cao 200m và rộng 150 m Với kích thước này, hang Sơn Động vượt hang Deer ở vườn quốc gia Gunung Mulu ở Sarawak Malaysia, lớn gấp 4-5 lần động Phong Nha, lớn hơn Động Thiên Đường. Hang Sơn Đoòng được đánh giá là một bức tranh “Hoành tráng, đẹp đến mức kinh ngạc” với nhiều thạch nhũ có hình thù kỳ lạ,điều đặc biệt nhất có điểm chứa cả rừng cây nguyên sinh đang phát triển ở trong lòng hang. Các nhà khoa học địa chất thế giới nhận định Sơn Đoòng là hang động kỳ vĩ nhất thế giới.

Cùng với hệ thống hang động kỳ diệu Phong Nha – Kẻ Bàng còn một hệ thống sông ngòi trong vùng khá phức tạp và các sông ngầm dài nhất. Có 3 con sông chính: sông Troóc, sông Chày, sông Son trong khu vực Phong Nha – Kẻ Bàng với dòng nước trong xanh chảy giữa vùng núi đá có rừng tạo nên cảnh đẹp thơ mộng như bức tranh thuỷ mặc quyến rũ du khách.

Bên cạnh đó, khu vực Phong Nha – Kẻ Bàng còn có hàng chục con suối và thác nước đẹp như: Thác Gió, Thác Mệ Loan, Suối Moọc phun lên từ chân một dãy núi đá vôi, Suối Trạ An…

Phong Nha – Kẻ Bàng còn có hàng chục đỉnh núi cao trên 1.000 mét, hiểm trở, chưa từng có vết chân người, là các điểm hấp dẫn thể thao leo núi và thám hiểm. Điển hình là các đỉnh Co Rilata cao 1.128 mét, Co Preu cao 1.213 mét. Xen kẽ giữa các đỉnh núi trên 1.000 mét là những thung lũng phù hợp cho du lịch sinh thái.

Trong Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng còn tồn tại một khu rừng nhiệt đới nguyên sinh ít bị tác động với độ che phủ trên 96,2% và có tính đa dạng sinh học cao. Tại vùng này theo số liệu điều tra, bước đầu có nhiều loài thực vật đặc hữu của rừng núi đá vôi như Chò đãi, Chò nước, Trầm hương, Nghiến, Sắng, Ba kích và Sao… Thực vật bậc cao có 2651 loài. Gần đây, các nhà khoa học phát hiện thêm nhiều loài thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng cao ngoài tự nhiên như Bách xanh đá, Lan hài đốm, Lan hài xanh, Lan hài xoắn và nhiều thực vật quý hiếm khác cũng được ghi nhận.

Phong Nha – Kẻ Bàng còn là nơi sinh sống của 113 loài thú lớn, nổi bật nhất là hổ và bò tót, loài bò rừng lớn nhất thế giới, 302 loài chim, trong đó có 35 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 19 loài nằm trong Sách đỏ thế giới; 81 loài bò sát lưỡng cư (18 loài trong Sách đỏ Việt Nam và 6 loài Sách đỏ thế giới); 259 loài bướm; 72 loài cá, trong đó có 4 loài đặc hữu Việt Nam. Năm 1996, ở đây có loài cá mới phát hiện ở Việt Nam. Linh trưởng có 10 bộ linh trưởng, chiếm 50% tổng số loài thuộc bộ linh trưởng ở Việt Nam, 7 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam, đặc biệt là voọc Hà Tĩnh, sao la, mang.Vì thế, nơi đây được đánh giá là có hệ tự nhiên đa dạng nhất trong tất cả các vườn quốc gia và khu dự trữ sinh quyển quốc gia trên thế giới

Đặc biệt, rừng trên núi đá vôi là nơi phân bố nhiều loài Linh trưởng nhất Việt Nam, gồm 10 loài được ghi nhận, chiếm khoảng 50% tổng số loài thuộc bộ Linh trưởng ở Việt Nam, 7 loài Linh trưởng thuộc bộ Linh trưởng được liệt kê vào Sách Đỏ Việt Nam và 3 loài phụ có tính đặc hữu hẹp ở Việt Nam. So với các khu bảo tồn và vườn quốc gia khác ở Việt Nam thì độ phong phú của các loài động vật ở Phong Nha – Kẻ Bàng còn khá cao. Các loài quý hiếm, đặc biệt Linh trưởng có số lượng cao nhất trong nước.

Ngoài sinh cảnh thảm thực vật và động vật hoang dã, Khu Phong Nha – Kẻ Bàng còn là nơi đã từng tồn tại và đang hiện diện cả một hệ di tích lịch sử văn hoá có giá trị cho nhiều thời đại như các di tích khảo cổ học thời tiền sử, văn hoá Chămpa và Việt cổ, di tích căn cứ kháng chiến chống Pháp của vua Hàm Nghi cuối thế kỷ XIX tại núi Ma Rai và những địa danh nổi tiếng trên đường mòn Hồ Chí Minh như bến phà Xuân Sơn, bến phà Nguyễn văn Trỗi, đường 20 Quyết Thắng đã đi vào huyền thoại gắn liền với những chiến công hiển hách và sự hy sinh cao cả của dân tộc Việt Nam trong chiến tranh giành độc lập và thống nhất Tổ quốc.

Thêm nữa, trong khu vực Phong Nha – Kẻ Bàng sinh sống chủ yếu là người Chứt, một số ít người Việt và Bru – Vân Kiều văn hoá vật thể và phi vật thể của họ là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học và đồng thời là địa chỉ hấp dẫn của loại hình du lịch văn hoá dân tộc ít người ở vùng Phong Nha – Kẻ Bàng.

Trong những năm qua, Khu du lịch Phong Nha -Kẻ Bàng đã trở thành địa chỉ yêu thích của du khách. Số lượng khách du lịch đến tham quan Phong Nha ngày càng đông, nhất là từ khi Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới. Cùng với Thánh địa Mỹ Sơn, Phố cổ Hội An, Cố đô Huế, Di sản Thiên nhiên Thế giới Phong Nha – Kẻ Bàng, tuyến du lịch độc đáo “Con đường Di sản Miền Trung” hình thành và lan rộng, tạo nên sức hấp dẫn đối với khách du lịch.

Việt Nam ta nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh được hình thành dưới bàn tay của thiên nhiên, tạo hóa như: vịnh Hạ Long, Ngũ Hành Sơn,……Tiêu biểu trong số đó phải kể đến hệ thống hang động đẹp, kỳ vĩ của vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng _ di sản thiên nhiên thế giới, lập được nhiều kỷ lục thế giới như hang Sơn Đoòng, động Vòm,….Hang động nằm trong những hang động đẹp nhất, rộng nhất thế giới phải kể đến “ kỳ quan đệ nhất động” động Phong Nha.

Động Phong Nha là một trong những danh thắng tự nhiên thuộc hệ thống hang động của vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng nằm tại huyện Bố Trạch, và Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam. Để đến được động Phong Nha ta phải xuống bến thuyền đi qua con sông Son là tiến vào cửa hang động. Tuy động Phong Nha được hình thành do những kiến tạo địa chất xảy ra trong lòng dãy núi đá vôi Kẻ Bàng. Hệ thống đứt gãy chằng chịt trên mặt đá vôi đã tạo điều kiện cho nước dễ thấm vào các khối đá vôi. Sự xâm thực đã gặm mòn, hòa tan, rửa trôi đá vôi trong hàng triệu năm. Nơi đây còn tìm thấy những vết tích, văn tự khắc trên vách đá bằng ngôn ngữ Chăm Pa cổ cho thấy động Phong Nha được người Chăm phát hiện từ thời xa xưa khi vùng đất này còn thuộc Vương quốc Chăm Pa và từng là nơi vua Hàm Nghi trú ngụ trong thời kỳ thực hiện chiếu Cần Vương kháng chiến chống thực dân Pháp. Để đến động Phong Nha ta có thể đi theo hai con đường. Một là xuống bến thuyền đi theo dòng sông Son, hai là ngược dòng sông Gianh đến đoạn sông Gianh gặp sông Son rồi cứ theo sông Son mà vào động.

Advertisement

Có thể nói, đến với động Phong Nha ta như lạc vào thế giới thần tiên mang vẻ đẹp độc đáo, kỳ vĩ, nên thơ. Phong Nha dài 7.729 m, có 14 hang, có dòng sông ngầm dài 13.969 m. Các thạch nhũ trong động trải qua hàng triệu năm kiến tạo từ nước có hòa tan đá vôi, từ đó tích tụ thành những hình tượng lạ mắt như hình sư tử, hình ngai vàng, hình đức Phật v.v. Nơi đây được chia làm hai động : động khô và động nước. Ở động nước, nơi đây gồm ba hang: Bi Ký, Cô Tiên, Cung Đình với những thạch nhũ nhiều màu sắc, hình dáng và nét hùng vĩ của những buồng, hành lang đá vôi phủ đầy thạch nhũ. Tiếp đến là động khô, nổi bật nhất ở nơi đây phải kể đến hang Tiên Sơn, là chỉnh thể thống nhất với động Phong Nha, tọa lạc ở độ cao khoảng 200m trên trần động Phong Nha, động Tiên Sơn có chiều dài là 980m và không ăn chung với động Phong Nha. Để lên hang Tiên Sơn, ta phải men theo vách núi quanh co uốn lượn, nơi đây mang một vẻ hoang sơ, kỳ vĩ với nhiều nhũ đá rủ xuống, nhiều măng đá “mọc” từ dưới lên tạo thành các hình thù kỳ lạ. Theo các nhà khoa học thuộc Hội hang động Hoàng gia Anh, động này được kiến tạo cách đây hàng chục triệu năm, khi một dòng nước chảy qua quả núi đã đục rỗng, bào mòn núi đá vôi Kẻ Bàng. Sau đó, do địa chất thay đổi, khối đá vôi đổ sụp, chặn dòng chảy và làm nên động khô Tiên Sơn.. Ngoài ra động khô còn nổi tiếng với động Thiên Đường “hoàng cung trong lòng đất”, là một trong những trong những kỳ quan tráng lệ và huyền ảo bậc nhất thế giới, được coi là hang động khô dài nhất thế giới, có có chiều dài 31,4km, chiều rộng dao động từ 30 đến 100m, nơi rộng nhất 150m và có chiều cao từ đáy lên trần động khoảng 60m. Những thạch nhũ ở nơi đây có nhiều hình thù hơn động nước Phong Nha. Một trong những nhánh hang thuộc hệ thống động Phong Nha nằm trên sông Chày tên là Hang Tối có cửa hang rộng 20 mét, cao 40m, vừa là hang nước, vừa là hang khô với chiều dài 5.258m, cao 80m, tên gọi của hang là do đoàn thám hiểm hang động Hoàng gia Anh khi đến thám hiểm vào năm 1990 và 1992 đặt bởi bên trong hang “ánh sáng tối” như đặc quánh lại tưởng như có thể chạm vào được.

Ta có thể thấy vẻ đẹp của động Phong Nha mang nét rất riêng mà không nơi nào có được, chính vì thế mà nó có những giá trị đặc sắc như giá trị về khảo cổ, lịch sử, văn hóa cũng như giá trị về du lịch với nguồn lợi nhuận to lớn từ những lượng khách tứ phương đổ về vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng để thăm động. Với những giá trị ấy, động cần được bảo tồn, duy trì và phát triển nếu không nơi đây sẽ chịu sự tàn phá từ thiên nhiên và từ việc khai thác không kế hoạch mà bị hủy hoại, giữ gìn vẻ đẹp thiên nhiên hang động nơi đây chính là giữ lại những nét đẹp đặc trưng của thiên nhiên Việt Nam tới những thế hệ nay và mai sau.

“Đệ nhất kì quan Phong Nha” nằm trong một quần thể hang động thuộc khối núi đá vôi Kẻ Bàng ở miền tây Quảng Bình.

Có thể tới phong nha rất dễ dàng bằng hai con đường: đường thủy ngược dòng sông gianh đến đoạn sông gianh gặp sông son rồi cứ theo sông son mà vào. Đường bộ theo tỉnh lộ số 2 đến bến sông son (đường dài chừng 20 cây số). Từ bến sông này đi thuyền máy độ ba mươi phút là tới cửa hang phong nha. Sông mang tiếng là “son” nhưng nước lại một màu xanh thẳm và rất trong. Ngồi trên thuyền chạy ngược sông, nhìn ra hai bên bờ, ta thấy những khối núi đá vôi trùng điệp, những xóm làng, nương ngô, bãi mía nằm rải rác. Phong nha gồm hai bộ phận: động khô và động nước. Động khô ở độ cao 200m, theo các nhà địa lý học, thuở xưa vốn là một dòng sông ngầm, nay đã kiệt sức, chỉ còn những vòm đá trắng vân nhũ và vô số cột đá màu xanh ngọc bích óng ánh.

Trái với động khô, động nước hiện thời vẫn đang có một con sông dài chảy suốt ngày đêm… Sông khá sâu và nước rất trong. Hấp dẫn và được khách du lịch lui tới nhiều nhất chính là động nước.

Vào động nước phải đi bằng thuyền và mang theo đèn đuốc, bởi càng đi sâu vào trong thì hang càng tối. Hiện nay, ở một số nơi trong hang đã mắc điện nhưng muốn đi suốt 1.500m hang vẫn phải cần tới đuốc, đèn.

Động chính phong nha gồm mười bốn buồng, nối với nhau bởi một hành lang phụ dài vài trăm mét. Ơ các buồng ngoài, trần hơi thấp, chỉ cách mặt nước độ lom. Từ buồng thứ tư trở đi vòm hang đá cao tới 25 – 40m. Đến hang thứ mười bốn, có thể theo các hành lang hẹp để đến các hang to ở phía sâu bên trong, cùng các dòng sông ngầm dưới khối núi đá vôi kẻ bàng và khu rừng nguyên sinh 40 hecta vẫn còn cất giữ bao điều huyền bí thú vị, hấp dẫn mà con người vẫn chưa biết hết.

Đi thuyền thăm động phong nha, chúng ta sẽ vô cùng kinh ngạc và thích thú trước vẻ đẹp lộng lẫy, kì ảo của nó. Dưới ánh sáng lung linh của đèn đuốc, các khối thạch nhũ hiện lên đủ hình khối, màu sắc. Có khối hình con gà, con cóc, có khối xếp thành đốt trúc dựng đứng trên mặt nước… Lại có khối mang hình mâm xôi, cái khánh, hoặc hình các tiên ông đang ngồi đánh cờ… Bàn tay tài hoa của tạo hóa khéo tạo cho các khối thạch nhũ không những chỉ đẹp về đường nét mà còn rất huyền ảo về sắc màu, một sắc màu óng lánh như kim cương không bút nào lột tả hết. Đây đó, trên vách động còn rủ xuống những nhánh phong lan xanh biếc. Trong hang cũng có một số bãi cát, bãi đá để thuyền ghé lại cho khách đi thuyền dừng chân mặc sức leo trèo, luồn lách qua các bậc đá, các ngõ ngách để thăm thú đây đó, chụp ảnh, ghi hình hoặc thắp hương lên các bàn thờ do người chăm, người Việt dựng nên tự thuở nào.

Đi suốt chiều dài hơn ngàn mét ở phần ngoài của động phong nha, du khách đã có cảm giác như lạc vào một thế giới khác lạ – thế giới của tiên cảnh. Nơi đây vừa có nét hoang sơ, bí hiểm; lại vừa rất thanh thoát và giàu chất thơ. Một tiếng nước gõ long tong, một tiếng nói trong hang động đều có âm vang riêng, khác nào tiếng đàn, tiếng chuông nơi cảnh chùa, đất bụt.

Với một vẻ đẹp đặc sắc, độc đáo riêng, động phong nha được xem là “kỳ quan đệ nhất động” của Việt Nam.

Những năm gần đây, ngành du lịch của đất nước ta đang rất phát triển. Trên khắp đất nước có rất nhiều những danh lam thắng cảnh nổi tiếng như vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An, Mỹ Sơn… Trong số đó, động Phong Nha cũng là một địa điểm thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Động Phong Nha đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.

Động Phong Nha nằm trong quần thể hang động thuộc khối núi đá vôi Kẻ Bàng, thuộc địa phận xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Ta có thể đến Động Phong Nha thật dễ dàng bằng hai con đường: nếu bạn thích đi đường thuỷ thì ngược dòng sông Gianh đến đoạn sông Gianh gặp sông Son rồi cứ theo sông Son mà vào động. Nếu đi đường bộ thì lộ trình sẽ theo tỉnh lộ số 2 đến bến sông Son (đoạn đường này ước chừng 20 cây số). Nhưng dù đi bằng cách nào thì bạn đều phải đi xuồng máy hoặc chèo đò từ bến sông Son vào cửa hang Phong Nha. Nếu đi bằng xuồng máy từ bến sông Son vào đến cửa hàng Phong Nha thì mất khoảng nửa giờ. Ngồi trên xuồng ngắm nhìn dòng sông xanh thẳm và rất trong, nhìn những khối núi đá vôi trùng điệp, những xóm làng, nương ngô rải rác hai bên bờ thì thật là thú vị.

Phong Nha gồm hai bộ phận là động khô và động nước. Động khô ở độ cao khoảng 200m, giờ chỉ còn những vòm đá trắng vân nhũ cùng vô số những cột đá óng ánh màu xanh ngọc. Nhưng theo các nhà địa lý học thì xưa kia, ở động khô này vốn là một dòng sông ngầm, nay đã cạn hết nước. Động nước thì bây giờ vẫn còn có một con sông dài chảy suốt ngày đêm. Con sông này nước rất trong và cũng khá sâu.

Động nước là nơi hấp dẫn và được khách du lịch lui tới nhiều hơn cả. Vì hiện nay động nước vẫn có một con sông dài nên muốn vào được thì cần phải có thuyền. Nhưng điều quan trọng là phải mang theo đèn, đuốc để thắp sáng vì càng vào sâu trong hang thì càng ít ánh sáng. Tuy một số nơi ở trong hang đã được mắc điện nhưng muốn đi suốt 1500 mét hang thì vẫn phải cần có dụng cụ để thắp sáng.

Động chính Phong Nha có tới mười bốn buồng nối với nhau bằng một hành lang chính dài hơn một nghìn mét. ở các buồng ngoài trần thấp, chỉ cách mặt nước chừng 10m. Từ buồng thứ tư trở đi thì vòm hang đã cao tới 25 – 40m. Đến hang cuối cùng, hang thứ mười bốn thì bạn có thể thỏa sức mà thám hiểm các hàng to ở phía trong sâu theo cách hành lang hẹp. Nhưng những hang to này mới chỉ có một vài đoàn thám hiểm với đầy đủ trang thiết bị từ máy móc, đèn, quần áo đến thuốc men, đặt chân tới. Liệu bạn có đủ tự tin để trở thành một nhà thám hiểm tài ba không? Tuy nhiên hang động Phong Nha vẫn còn cất giữ biết bao điều huyền diệu, thú vị đang chờ đợi chúng ta đến khám phá.

Đi thuyền thăm động Phong Nha, chúng ta sẽ bị bất ngờ và hấp dẫn trước vẻ đẹp kỳ ảo của nó. Dưới ánh sáng của đèn đuốc, các khối nhũ đá hiện lên với nhiều màu sắc, hình khối. Những khối nhũ đá này có đường nét hài hoà, màu sắc huyền ảo, sắc lóng lánh như kim cương. Nhất là dưới ánh đèn đuốc thì cảnh hiện lên lại càng lung linh, huyền ảo. Trên vách động thi thoảng còn thấy những nhánh phong lan rừng rủ xuống xanh mướt. Trong hang cũng có một số bãi cát nhỏ, tới đây du khách có thể ghé thuyền lại mà leo trèo, thăm thú, ghi hình, chụp ảnh làm kỷ niệm. Vào động Phong Nha ta cảm thấy một khung cảnh thật khác lạ: trước mắt là những khối nhũ đá lung linh huyền ảo, ta lại được nghe tiếng nước chảy, âm vang của tiếng nói, được cảm nhận không khí mát mẻ, trong lành thật là sảng khoái.

Quả thật xứng với danh hiệu “Kỳ quan đệ nhất động”, động Phong Nha là một hang động đẹp, kỳ vĩ. Theo báo cáo khoa học của đoàn thám hiểm hội địa lý Hoàng gia Anh, động Phong Nha có tới bảy cái nhất: hang động dài nhất, cửa hang cao và rộng nhất, bãi cát, bãi đá rộng và đẹp nhất, có những hồ ngầm đẹp nhất, hành khô rộng và đẹp nhất, thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất, sông ngầm dài nhất. Để giữ gìn và bảo tồn vẻ đẹp của động Phong Nha, chúng ta phải có ý thức tham gia bảo vệ danh lam thắng cảnh này.

Văn Mẫu Lớp 7: Phân Tích Bài Thơ Bánh Trôi Nước (Dàn Ý + 8 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Hay Nhất Lớp 7

Phân tích bài thơ Bánh trôi nước

I. Mở bài

Giới thiệu đôi nét về tác giả Hồ Xuân Hương, bài thơ Bánh trôi nước.

II. Thân bài

1. Hình ảnh chiếc bánh trôi nước

– Hình dáng bên ngoài: màu sắc (vừa trắng), hình dáng (vừa tròn).

– Cách thức làm bánh:

Luộc bánh trong nước, khi nào bánh nổi lên mặt nước có nghĩa là đã chín.

Rắn hay nát phụ thuộc vào tay người nặn.

– Nhân bánh: thường được làm bằng đường phên (tấm lòng son).

2. Hình ảnh người phụ nữ

– “Thân em” – mô típ quen thuộc trong ca dao xưa:

*

*

– Hình ảnh ẩn dụ: “bánh trôi” để chỉ người phụ nữ.

– Ngoại hình của người phụ nữ được miêu tả: “vừa trắng lại vừa tròn” gợi ra một thân hình khá đầy đặn, nước da trắng hồng. Đó là chuẩn mực của người phụ nữ đẹp trong xã hội xưa.

– Số phận của người phụ nữ:

“Bảy nổi ba chìm”: cuộc đời vất vả, gặp nhiều gian truân.

“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nạn”: số phận phải phụ thuộc vào người khác, không được tự mình quyết định. (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử – Ở nhà thì nghe theo cha, lấy chồng thì nghe theo chồng, chồng chết thì nghe theo con).

“Mà em vẫn giữ tấm lòng son”: Dù cuộc đời có khó khăn, khổ cực thì người phụ nữ vẫn giữ được tấm lòng thủy chung, son sắc và không thay đổi.

III. Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Bánh trôi nước”.

Bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương đã thể hiện sự trân trọng trước vẻ đẹp, phẩm chất trong trắng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ niềm thương cảm cho cuộc đời lận đận của họ:

Bài thơ mang hai nét nghĩa. Trước hết là nét nghĩa tả thực – miêu tả hình ảnh bánh trôi nước. Tác giả đã miêu tả hình dáng bên ngoài: màu sắc (vừa trắng), hình dáng (vừa tròn). Cùng với đó là cách thức làm bánh luộc bánh trong nước, khi nào bánh nổi lên mặt nước có nghĩa là đã chín. Bên trong nhân bánh thường được làm bằng đường phên. Viên bánh rắn hay nát phụ thuộc vào tay người nắn có khéo léo. Hình ảnh tả thực chiếc bánh trôi từ hình thức đến cách thức.

Nhưng không chỉ mang nét nghĩa như vậy, Hồ Xuân Hương còn muốn nói đến vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa qua hình ảnh “bánh trôi nước”. Mở đầu bằng cụm từ “thân em” – đây là một mô-típ đã rất quen thuộc trong ca dao:

Hay như:

Ở bài thơ “Bánh trôi nước” hay các bài ca dao, dân ca đều xuất phát từ niềm thương cảm, xót xa cho số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ là những con người nhỏ bé trong xã hội. Cuộc đời trôi nổi, bấp bênh và không được tự quyết định cuộc sống của bản thân, chịu sự chi phối của người khác.

Vẻ đẹp của người phụ nữ hiện lên “vừa trắng lại vừa tròn” gợi ra một thân hình khá đầy đặn, nước da trắng hồng. Đó là chuẩn mực của người phụ nữ đẹp trong xã hội xưa. Xinh đẹp là vậy, nhưng cuộc đời lại nhiều bất hạnh. Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” gợi ra một cuộc đời vất vả, gặp nhiều gian truân. Câu thơ “rắn nát mặc dầu tay kẻ nạn” đã nói lên số phận phải phụ thuộc vào người khác, không được tự mình quyết định. Nhưng dù có chịu nhiều bất hạnh, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương vẫn gìn giữ được tâm hồn cao quý: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. : Dù cuộc đời có khó khăn, khổ cực thì họ vẫn giữ được tấm lòng thủy chung, son sắc và không thay đổi. Hình ảnh người phụ nữ hiện lên với đầy đủ nét đẹp từ ngoại hình đến tâm hồn. Bài thơ sử dụng ngôn ngữ bình dị, hình ảnh ẩn dụ, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt cô đọng, hàm súc… nhằm làm nổi bật nên ý nghĩa mà nhà thơ muốn gửi gắm.

Như vậy, “Bánh trôi nước” là một tác phẩm giàu giá trị nhân văn sâu sắc. Từ đó, chúng ta cần phải trân trọng, yêu thương những người phụ nữ hơn.

Chúng ta đang sống trong trong một xã hội bình đẳng, dân chủ – nơi mà con người được hưởng tất cả những quyền tự do, hạnh phúc. Nơi không có chiến tranh, không có áp bức, không có bất công hay phân biệt đối xử. Đó chính là một cuộc sống mà con người ta hằng mong ước. Nhưng đó lại là điều xa xỉ ở trong xã hội cũ. Con người khao khát bình đẳng, khao khát quyền làm chủ, đặc biệt là người phụ nữ. Điều đó lại càng thể hiện rõ hơn trong bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương.

Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hương sử dụng mô-típ quen thuộc “thân em” để có thể ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ. Hình ảnh người phụ nữ hiện lên với vẻ đẹp đầy đặn, mặn mà. Chỉ bằng hình ảnh chiếc bánh trôi nước, nhưng gợi lên cho người đọc sự thuần khiết, tinh khôi của người phụ nữ – những người đáng ra phải nhận được sự quan tâm, chở che và bảo vệ.

Nhưng cuộc đời họ lại chịu nhiều cay đắng. Ở câu thơ thứ hai, tác giả đã sử dụng câu thành ngữ “bảy nổi ba chìm” một cách khéo léo, đầy tinh tế để gợi tả về số phận “bất hạnh” của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị chà đạp, bị những định kiến của xã hội làm cho cuộc đời bấp bênh, trôi nổi, không biết đến ngày mai. Cái thân phận yếu ớt, mảnh mai ấy làm sao có thể chịu được những sóng gió, vùi dập, cứ lênh đênh không có một bến bờ để neo đậu. Không cần dùng những câu nói hay những động từ có tác động mạnh đến người đọc, nhưng những hình ảnh ẩn dụ của Hồ Xuân Hương lại có ấn tượng mạnh mẽ đến vậy. Người phụ nữ trong xã hội ấy, họ không được định đoạt số phận, không được “quyền” quyết định hạnh phúc của mình mà cứ thế phó mặc cho cuộc đời đưa đẩy. Đọc đến câu thơ này, nhiều người đọc sẽ phải thốt lên: “Làm sao có thể để cho người phụ nữ chân yếu tay mềm, yếu ớt nhưng vậy phải gánh chịu những bão bùng của cuộc đời, vậy phải chăng trên thế gian này không còn ai giống “Từ Hải” để có thể cứu giúp những thân phận người phụ nữ đầy bất hạnh như Thúy Kiều nữa?”

Cái thân phận yếu mềm, tủi nhục và không biết đến ngày mai ấy cứ phó mặc cho cuộc đời, phó mặc cho “kẻ nặn” cái quyền được “điều khiển” cuộc đời mình. Dù họ có vùng vẫy như thế nào đi chăng nữa thì cuộc đời họ cũng không thể thoát khỏi được. Vậy vì sao lại vậy? Vì sao họ lại tiếp tục căm chịu như vậy? Phải chăng do họ sợ? Không, bởi vì họ nhận thức sâu sắc rằng, dù họ có làm gì đi chăng nữa thì cũng không thể nào có thể chống lại những định kiến của xã hội, đã được bồi đắp hàng nghìn năm. Cái chế độ khiến con người ta đi vào bế tắc và không muốn phản kháng lại nữa. Vậy biết đến bao giờ họ mới có thể có một cuộc sống tự lập riêng cho chính mình, để họ có thể được sống theo ý mình, để họ có thể được làm chính họ?

Giọng thơ dù thể hiện nỗi đau, sự tủi nhục, cam chịu của người phụ nữ nhưng vẫn giữ thái độ kiên trì, bền vững “tấm lòng son” – một biểu hiện tượng trưng cho phẩm chất thủy chung, son sắt, một lòng một dạ với chồng với con. Dù cho họ bị vùi dập đến đâu, dù có đau khổ đến nhường nào họ vẫn sẽ là một người vợ, người mẹ, người con hiếu thảo, chịu thương chịu khó, hết mực với chồng với con. Đó chính là phẩm chất ngàn đời của người phụ nữ Việt không thể thay thế được. Câu thơ thể hiện niềm tự hào và biểu lộ cảm xúc mạnh mẽ của tác giả: sự đồng cảm sâu sắc đối với những người phụ nữ đang là “tù nhân” của xã hội phong kiến và sự phẫn nộ đối với những “kẻ nặn” – những kẻ trực tiếp gây ra những nỗi đau cho chính những người phụ nữ đáng ra họ phải được hưởng nhiều hơn là cam chịu như vậy.

Bài thơ dù rất ngắn nhưng lại khắc họa được hình ảnh về người phụ nữ Việt Nam thông qua hình ảnh bánh trôi nước. Tác giả mong muốn thông qua bài thơ, góp một tiếng lòng, sự đồng cảm sâu sắc đối với những người phụ nữ và thức tỉnh những “kẻ nặn” – hãy biết trân trọng và thương yêu những người phụ nữ ở bên cạnh mình.

“Bánh trôi nước” là một trong những bài thơ nổi tiếng của Hồ Xuân Hương. Bài thơ vừa cho thấy vẻ đẹp và số phận người phụ nữ trong xã hội cũ, đồng thời cho thấy tấm lòng nhân văn cao cả.

Bài thơ có hai lớp nghĩa chính, lớp nghĩa thứ nhất là lớp nghĩa tả thực, miêu tả bánh trôi nước từ hình dáng cho đến cách làm. Bánh trôi có hình tròn, màu trắng. Làm bánh trôi bằng cách viên thành hình tròn nhỏ vừa ăn, bên trong bánh trôi là một viên đường nhỏ, thường được làm bằng đường phên hoặc đường phèn. Khi luộc thấy bánh lên tức là bánh đã chín. Bài thơ đã mô tả một cách chân thực, chính xác về món ăn dân dã, quen thuộc của nhân dân ta.

Nhưng ẩn đằng sau lớp nghĩa tả thực đó lại là lớp nghĩa ẩn dụ hết sức tinh tế, sâu sắc, hình ảnh bánh trôi cũng chính là hình ảnh biểu tượng cho người phụ nữ. Mở đầu bài thơ tác giả sử dụng mô típ quen thuộc trong văn học dân gian “Thân em”. Hai chữ thân em nói lên nỗi đau thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Tiếng thơ của Hồ Xuân Hương có sự đồng điệu, gặp gỡ với những tiếng hát than thân trong ca dao:

Việc Hồ Xuân Hương sử dụng các ngữ liệu dân gian vừa khiến cho thơ bà gần gũi, mềm mại với đời sống, mặt khác làm cho tiếng thơ trở nên da diết, thấm đầy chất nhân bản, trở thành tiếng thơ của bao người.

Ngay từ câu thơ đầu tiên của bài, bà đã khẳng định vẻ đẹp của người phụ nữ: trắng, tròn, họ mang vẻ đẹp phúc hậu, hiền từ. Lời khẳng định này cũng cho thấy bà rất có ý thức về bản ngã của mình nói riêng và của những người phụ nữ nói chung.

Mang vẻ đẹp về hình thức, ý thức được vẻ đẹp đó, nhưng số phận của họ lại hết truân chuyên, vất vả:

Thân phận của họ cũng chẳng khác gì những tấm lụa đào, hạt mưa sa,… người con gái trong xã hội cũ không được tự quyết định số phận, hạnh phúc của mình. Khi ở nhà họ phụ thuộc vào cha mẹ, cha mẹ đặt đâu họ phải ngồi ở đó, đến lúc đã yên bề gia thất số phận của họ lại tiếp tục bị phụ thuộc vào người chồng. Những người phụ nữ này thật nhỏ bé và đáng thương, cuộc đời chìm nổi với biết bao sóng gió, hạnh phúc của bản thân không được tự mình quyết định.

Mặc dù cuộc sống không được suôn sẻ, luôn gặp phải những sóng gió nhưng những người phụ nữ ấy lại mang trong mình những phẩm chất hết sức tốt đẹp:

“Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

Họ là những người phụ nữ luôn mang trong mình tấm lòng trong trắng, tốt đẹp, dù gặp cảnh ngộ nào cũng vẫn giữ được tấm lòng son sắt, thủy chung. Chữ “son” như một điểm sáng, nhãn tự trong bài, làm bừng sáng nét đẹp về nhân cách, phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam.

Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc. Sử dụng nghệ thuật ẩn dụ đặc sắc. Kết hợp linh hoạt các mô típ của văn học dân gian khiến cho bài thơ vừa giản dị, gần gũi vừa mang dáng dấp uyên bác, tài hoa. Tất cả những yếu tố đó đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm

Tác phẩm đã ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ không chỉ ở phẩm chất mà ngay cả vẻ đẹp bề ngoài. Bài thơ cũng là tiếng nói cảm thông với số phận chìm nổi, bị lệ thuộc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Trong xã hội phong kiến xưa, người phụ nữ luôn phải chịu những bất công, những định kiến đầy nghiệt ngã của xã hội. Một trong những tác phẩm viết về số phận của người phụ nữ là bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ Hồ Xuân Hương đã gợi mở những hình ảnh của những chiếc bánh trôi nước. Bánh trôi nước là loại bánh làm bằng bột gạo nếp, qua bàn tay của những người nghệ nhân thì khi nặn xong chúng có hình dạng tròn trịa cùng một màu trắng đặc trưng của gạo. Ở trong bài thơ này, nhà thơ Hồ Xuân Hương đã mượn hình ảnh của những chiếc bánh trôi nước để nói về cuộc sống và số phận của những người phụ nữ trong xã hội xưa. Hiểu như thế ta có thể thấy qua hình ảnh tròn, trắng của những chiếc bánh trôi gợi ra vẻ đẹp bên ngoài, vẻ đẹp hình thể của những người phụ nữ.

Đó chính là một vẻ đẹp tươi mới, tròn trịa, đầy sức sống “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Nhưng đối nghịch với vẻ đẹp đầy sức sống đó lại là một số phận, tương lai đầy mịt mờ, tăm tối “Bảy nổi ba chìm với nước non”. Về ý nghĩa tả thực, ta có thể hiểu đây là là quá trình luộc chín bánh, hoàn thành bước cuối cùng. Nhưng đây cũng chỉ là một hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. Bởi nó gợi ra số phận, cuộc đời đầy thăng trầm, biến đổi của những người phụ nữ. Như đã nói, trong xã hội xưa, sinh ra trong thân phận của người phụ nữ vốn đã là một thiệt thòi, bất công.

Bởi từ khi sinh ra đến lúc dựng vợ gả chồng thì họ hoàn toàn không được quyết định bất cứ vấn đề gì, kể cả tình yêu, đối tượng kết hôn, hạnh phúc của cả cuộc đời mình, vì trong xã hội xưa có quan niệm “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, hay “xuất giá tòng phu”, nghĩa là một khi đã lấy chồng thì mọi việc đều phải theo chồng. Vì vậy mà số phận thăng hay trầm đều hoàn toàn dựa vào người chồng của mình:

Đến câu thơ này thì ý niệm của hai câu thơ đầu được thể hiện, triển khai một cách rõ nét, cụ thể hơn. Nếu như những chiếc bánh trôi tròn, méo, rắn, nát đều phụ thuộc vào tay người nặn, nếu như được họ cẩn trọng, nâng niu thì khi hoàn thành chiếc bánh sẽ có hình tròn mà màu trắng trong. Ngược lại, nếu người nghệ nhân vô tâm, hời hợt thì chiếc bánh sẽ bị méo mó, và khi luộc trong nước sẽ bị vỡ. Đối với người con gái trong xã hội xưa cũng vậy, nếu may mắn gặp được người cũng biết yêu thương, trân trọng thì cuộc sống của học sẽ hạnh phúc, vui vẻ; còn khi lấy phải người chồng độc đoán, vũ phu thì họ sẽ có cuộc sống đau khổ, bất hạnh. Nhưng dẫu cuộc sống có bất biến, phù du thì những người con gái ấy vẫn giữ được vẻ đẹp trong trắng thủy chung trong tâm hồn. Đến đây thì hình ảnh của những người phụ nữ trong xã hội xưa được hoàn thiện, không chỉ có vẻ đẹp ngoại hình mà vẻ đẹp tâm hồn của họ rất đáng được trân trọng.

Advertisement

Mượn hình ảnh của những chiếc bánh trôi, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã xây dựng thành công hình ảnh của người phụ nữ xưa, đó là những người phụ nữ có vẻ đẹp toàn diện, không chỉ là vẻ đẹp hình thức mà còn là vẻ đẹp của tâm hồn. Dẫu có những bất hạnh, đau khổ thì vẻ đẹp tâm hồn ấy không những không mất đi mà còn sáng rực lên những tia sáng của phẩm chất, đạo đức. Thông qua bài thơ, nhà thơ cũng thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

Đến với thơ của Bà Huyện Thanh Quan chúng ta thưởng thức được những lời thơ trang nhã, mang tính chất cung đình, luôn gợi nỗi buồn man mác. Ngược lại học thơ của Bà Hồ Xuân Hương ta lại gặp một phong cách hoàn toàn khác. Giọng điệu thơ mạnh mẽ, rắn rỏi, đề tài thơ bình thường dân dã, ý thơ sâu sắc thâm thuý, chua cay, chất chứa nỗi niềm phẫn uất, đả kích xã hội đương thời. Bánh trôi nước là một bài thơ quen thuộc thể hiện rõ phong cách thơ của bà.

Toàn bài thơ là một hình ảnh tượng trưng. Nhờ tài quan sát, nhờ khả năng liên tưởng kì lạ, Hồ Xuân Hương đã phát hiện được những nét tương đồng giữa chiếc bánh trôi nước tầm thường và hình ảnh cũng như cuộc đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cả hai đều có vẻ bề ngoài đẹp (trắng, tròn) có tâm hồn cao quý (tấm lòng son), cuộc sống chìm, nổi, lênh đênh (trong nồi nước sôi luộc bánh cũng như trong cuộc đời), không làm chủ được số phận của mình. Chính những nhận xét riêng rất mới này, hình tượng thơ đã được xây dựng. Nhà thơ ngay từ những từ đầu tiên đã nhân hóa cái bánh trôi, gắn liền những chi tiết tả thực với những từ ngữ đa nghĩa tạo lên một trường liên tưởng rộng rãi cho người đọc. Do đó, bài thơ tả thực mà hàm nghĩa tượng trưng, nói về cái bánh trôi với đầy đủ đặc điểm của nó mà thành chuyện người phụ nữ chìm nổi trong cuộc đời. Người con gái ở đây có hình thể thật đẹp, da trắng nõn nà, thân hình đầy đặn, xinh xắn, có tâm hồn thật trong trắng nhân hậu hiền hoà: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”

Lẽ ra với vẻ đẹp như thế, nàng phải có cuộc đời sung sướng. Nhưng không, cuộc đời nàng phải long đong, vất vả, phiêu dạt, chìm nổi không chỉ một lần, trong cuộc đời rộng lớn: “Bảy nổi ba chìm dưới nước non”. Người phụ nữ không làm chủ được cuộc đời, số phận của họ do người khác định đoạt, nàng bị phũ phàng, vùi dập: “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”. Nhưng không, dù đời có phũ phàng, dù trải bao bất hạnh người phụ nữ vẫn giữ trọn vẹn phẩm giá và tâm hồn cao đẹp của mình. “Mà em vẫn giữ tấm lòng son” ở đây ta lại thấy được tài năng sáng tạo của nữ sĩ.

Ngay trong câu thơ đầu, tác giả đã chọn chi tiết không nhiều nhưng chọn kĩ và tả đúng với đặc điểm của chiếc bánh và tác giả chỉ cần đặt trước những từ miêu tả ấy hai từ thân em. Câu thơ lại sinh động hẳn lên. Thân em lời xưng hô của cái bánh được nhân hoá mà đó cũng chính là lời của người phụ nữ tự giới thiệu. Nhờ hai từ này, trí tưởng tượng của người đọc được chắp cánh và hình ảnh người phụ nữ đẹp hiện ra trong tâm trí mọi người. Cặp quan hệ từ “vừa… lại vừa” phụ trợ cho tứ thơ khiến giọng thơ hàm chứa một ý thức và một chút hài lòng kiêu hãnh về vẻ đẹp hình thể đó.

Thế nhưng sang câu thứ hai giọng thơ đột ngột chuyển hẳn. Từ thoáng chút hài lòng, tự hào chuyển sang than vãn về số phận hẩm hiu. Đảo lại một thành ngữ quen thuộc (ba chìm bảy nổi), nhà thơ đã tạo nên cách nói mới, nhấn mạnh hơn vào sự long đong. Thành ngữ này đi liền với hình ảnh vừa trắng vừa tròn tạo ra sự đối lập bất ngờ càng tô đậm nỗi bất hạnh của người phụ nữ. Cụm từ với nước non đi kèm theo hình ảnh bảy nổi ba chìm như một lời oán trách: Tại sao xã hội bất công lại vùi dập cuộc đời người phụ nữ như vậy?

Và từ giọng than vãn lời thơ lại chuyển sang giọng ngậm ngùi cam chịu “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”, người phụ nữ không làm chủ được cuộc đời mình mà phụ thuộc vào tay kẻ khác. Nhưng đến câu cuối cùng giọng thơ, ý thơ đột ngột chuyển lại: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Kết cấu đối lập được tác giả khai thác triệt để, đó là sự đối lập giữa thái độ người phụ nữ trong câu ba và câu bốn, đối lập giữa thái độ cam chịu và thái độ quả quyết bảo vệ phần trong sáng trong tâm hồn con người. Sự đối lập này tràn ra cả ngôn từ “Mặc dù… mà em vẫn giữ…” chỉ quan hệ đối lập nhưng do đặt vị trí đầu câu lại được tăng cường thêm của từ vẫn khiến cho ý nghĩa đối lập càng thêm sắc, mạnh. Từ mà là một “nhãn từ” (chữ hay nhất trong câu thơ) nói lên một cách dõng dạc và dứt khoát sự kiên trì cố gắng đến cùng để giữ tấm lòng son. ở đây người phụ nữ dám đối lập tấm lòng son với tất cả sóng gió, bảy nổi ba chìm của cuộc đời. Đó là người phụ nữ có ý thức rất rõ về cuộc sống và phẩm chất của mình. Đó là lời khẳng định giá trị đáng kính của người phụ nữ.

Bài thơ vỏn vẹn chỉ có bốn câu, đề tài lại là sự vật bình thường nhưng dưới ngòi bút thần diệu, Hồ Xuân Hương đã tạo nhiều vẻ. Bài thơ chứa đựng một luồng ánh sáng ý thức về xã hội bất công vùi dập người phụ nữ và ý thức về giá trị, phẩm giá của người phụ nữ chân chính, của con người luôn giữ tấm lòng son dù ở bất cứ hoàn cảnh nào.

Tóm lại, có thể nói “Bánh trôi nước” là bài thơ trữ tình đặc sắc của Hồ Xuân Hương. Đây là tiếng nói của người phụ nữ tự bộc bạch mình, là lời oán ghét sự bất công đối với người phụ nữ đồng thời cũng là lời khẳng định giá trị tâm hồn của họ. Nhà thơ đã thay mặt giới phụ nữ cất lên tiếng nói ấy cũng là lời bà tự khẳng định mình.

Thơ vịnh chỉ thực sự có ý nghĩa khi có sự gửi gắm tình cảm, tư tưởng của nhà thơ. Bài thơ của Hồ Xuân Hương, vì thế, còn là lời tự bộc bạch của một tấm lòng phụ nữ. Ta có thể nói nhà thơ mượn lời cái bánh trôi để nói lên thân phận và tấm lòng người phụ nữ.

Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương là một bài vịnh độc đáo: vịnh một món ăn dân tộc, dân gian. Thiếu một bàn tay, một tâm hồn phụ nữ dân dã như bà thì có lẽ cái bánh trôi nước chưa đi vào được văn học.

Trước hết, bài thơ vịnh của Hồ Xuân Hương rất tài tình:

Đây là lời tự giới thiệu của bánh: từ hình dáng, cấu tạo và cách chế tạo. Bánh trôi làm bằng bột nếp, nhào nước cho nhuyễn, rồi nặn thành hình tròn như quả táo, bọc lấy nhân bằng đường đen, nước sôi thì bỏ vào luộc, khi chín thì bánh nổi lên. Người nặn bột làm bánh phải khéo tay thì bánh mới đẹp, nếu vụng thì bánh có thể bị rắn hay bị nhão. Nhưng dù thế nào thì bánh vẫn phải có nhân. Thiếu nhân, bánh sẽ rất nhạt nhẽo. Đọc bài thơ, ta thấy hiện lên đúng là bánh trôi nước, không sai một li.

Thân trắng vừa tả cái bánh bằng bột trắng, vừa tả tấm thân trắng đẹp, phẩm hạnh trong trắng. Tròn vừa có nghĩa là em được phú cho cái hình dáng tròn, lại vừa có nghĩa là em làm tròn mọi bổn phận của em.

Bảy nổi ba chìm là thành ngữ chỉ sự trôi nổi, lênh đênh của số phận giữa cuộc đời. Nước non là sông, biển, núi, non, chỉ hoàn cảnh sống, suy rộng ra là đời, cuộc đời con người.

Đây là hình ảnh may rủi mà đời người phụ nữ rơi vào. Trong xã hội cũ trọng nam khinh nữ, số phận người phụ nữ đều do người đàn ông định đoạt. Cho nên người con gái trong ca dao cảm nhận:

Những câu ca dao thể hiện một ý thức an phận, cam chịu. Cái duy nhất họ làm chủ được là tấm lòng mình: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Người phụ nữ vẫn giữ niềm thuỷ chung, son sắt, bất biến với mối tình. Một lời nói thể hiện niềm tự hào kín đáo về phẩm chất thuỷ chung của người phụ nữ. Tuy nhiên, cả bài thơ vẫn thấm đượm nỗi cảm thương cho thân phận. Thân trắng, phận tròn mà phải chịu cảnh ba chìm bảy nổi, không làm chủ được mình.

Chúng ta đang được sống trong một thế giới tràn đầy hạnh phúc,một thế giới có sự bình đẳng về chủng tộc về mọi tầng lớp dân tộc. Mà trong ta có ai biết được trong xã hội xa xưa người phụ nữ phải chịu đựng một quan niệm cổ hữu sai trái “trọng nam khinh nữ”. Sống trong hoàn cảnh đó ,cũng mang trong mình số phận người phụ nữ Hồ Xuân Hương đã viết nên tác phẩm “Bánh trôi nước”.

Bài thơ miêu tả hình ảnh chiếc bánh trôi, nhưng thực chất là muốn nói về vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”

Tác giả đã sử dụng mô típ ca dao quen thuộc “Thân em” để người phụ nữ có thể hóa thân vào những chiếc bánh trôi nước dân dã đáng yêu. Hàm chứa bên trong vẫn là ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ biến họ thành những đóa hoa xinh đẹp, lộng lẫy và thắm tươi nhất của cuộc đời. Làm cho cuộc sống này thêm tươi đẹp thêm màu sắc.

“Bảy nổi ba chìm với nước non”

Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” được vận dụng tài tình nhằm gợi tả số phận người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa. Để bày tỏ nỗi xúc động thương cảm của bà Hồ Xuân Hương đứng trước số phận lênh đênh chìm nổi chẳng biết đi về đâu của người phụ nữ. Chỉ mặc cho số phận định đoạt. Tôi tự hỏi: “Một người phụ nữ đẹp đến mà vì lẽ gì phải chịu đựng cuộc đời như vậy, chẳng lúc nào được sống trong cuộc sống vui vẻ hạnh phúc?” Tại sao những người đàn ông to lớn khỏe mạnh như thế mà không chịu những số phận khổ cực mà bắt những phụ nữ nhỏ bé kia phải gánh lấy chứ?

“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” – Tác giả sử dụng một biện pháp kinh tế: đảo ngữ. Nói lên người phụ nữ phải sống lệ thuộc. “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Lúc ở nhà thì phụ thuộc vào cha, cha bảo gì làm nấy chằng giám làm trái, khi lập gia thất thì phải cung phụng cho chồng, cũng chẳng dám làm sai. Lúc chồng mất sống phận của mình phải nương nhờ vào con của mình. Trên cuộc đời này làm gỉ có quan niệm vô lí đến thế! Vậy biết bao giờ họ mới có được cuộc sống riêng tự lập cho chính bản thân mình. Họ phải đau khổ biết bao để chịu đựng những thứ đao lí như thế.

“Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

Giọng thơ tự hào quả quyết biểu thị thái độ kiên trì, bền vững. “Tấm lòng son” tượng trưng cho phẩm chất sắc son thủy chung, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam đối với chồng con, với mọi người tuy bị cuộc sống phụ thuộc, đối xử không công bằng trong cuộc đời. Câu thơ thể hiện niềm tự hào và biểu lộ khá đậm tính cách của Hồ Xuân Hương: cảm thương cho người phụ nữ, căm phẫn đối với người chồng

Bài thơ nói về người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua hình ảnh bánh trôi nước – một món ăn dân tộc bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân gian. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã được Việt hóa hoàn toàn. Thơ hàm súc đa nghĩa giàu bàn sắt Xuân Hương. Bài thơ biểu lộ niềm thông cảm và tự hào đối với số phận, thân phận và của người phụ nữ Việt Nam nó có giá trị nhân bản đặc sắc. Nữ sĩ viết với tất cả lòng yêu mến, tự hào bản sắc nền văn hóa Việt.

Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương là một bài vịnh độc đáo: vịnh một món ăn dân tộc, dân gian. Thiếu một bàn tay, một tâm hồn phụ nữ dân dã như bà thì có lẽ cái bánh trôi nước chưa đi vào được văn học.

Trước hết, bài thơ của Hồ Xuân Hương rất tài tình:

Đây là lời tự giới thiệu của bánh: từ hình dáng, cấu tạo và cách chế tạo. Bánh trôi làm bằng bột nếp, nhào nước cho nhuyễn, rồi nặn thành hình tròn như quả táo, bọc lấy nhân bằng đường đen, nước sôi thì bỏ vào luộc, khi chín thì bánh nổi lên. Người nặn bột làm bánh phải khéo tay thì bánh mới đẹp, nếu vụng thì bánh có thể bị rắn hay bị nhão. Nhưng dù thế nào thì bánh vẫn phải có nhân. Thiếu nhân, bánh sẽ rất nhạt nhẽo. Đọc bài thơ, ta thấy hiện lên đúng là bánh trôi nước, không sai một li.

Nhưng qua hình ảnh chiếc bánh trôi, Hồ Xuân Hương còn muốn nói đến vẻ đẹp, số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Trong xã hội cũ trọng nam khinh nữ, số phận người phụ nữ đều do người đàn ông định đoạt. Cho nên người con gái trong ca dao cảm nhận:

Những câu ca dao thể hiện một ý thức an phận, cam chịu. Cái duy nhất họ làm chủ được là tấm lòng mình. Người phụ nữ vẫn giữ niềm thuỷ chung, son sắt, bất biến với mối tình. Một lời nói thể hiện niềm tự hào kín đáo về phẩm chất thuỷ chung của người phụ nữ. Tuy nhiên, cả bài thơ vẫn thấm đượm nỗi cảm thương cho thân phận. Thân trắng, phận tròn mà phải chịu cảnh ba chìm bảy nổi, không làm chủ được mình.

Có thể khẳng định rằng bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương giàu giá trị nhân văn sâu sắc.

Văn Mẫu Lớp 12: Nghị Luận Xã Hội Về Kỹ Năng Sống (2 Dàn Ý + 13 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Lớp 12

Dàn ý nghị luận xã hội về kỹ năng sống

Dàn ý số 1

1. Mở bài

Giới thiệu, dẫn dắt đến vấn đề cần nghị luận

2. Thân bài

a. Giải thích khái niệm

– “Kĩ năng sống” chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu cầu và thách thức của cuộc sống có hiệu quả; đó cũng là khả năng của mỗi cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh.

b. Bàn luận

– Vai trò của việc rèn luyện kĩ năng sống:

Cuộc sống hiện đại đòi hỏi mỗi cá nhân phải không ngừng cập nhật giá trị và hoàn thiện giá trị của mình. Để tồn tại và phát triển, với bất kì ai, không chỉ cần học tập bồi dưỡng, nâng cao kiến thức mà còn phải rèn luyện kĩ năng sống để không ngừng nâng cao chất lượng đời sống để đời sống thực sự là sống chứ không là tồn tại.

Kĩ năng sống giúp con người ứng xử linh hoạt và hiệu quả nhất trước những tình huống nảy sinh trong cuộc sống.

Kĩ năng sống giúp mỗi người bình tĩnh, tự tin vào bản thân, dám khẳng định năng lực, sở trường của mình.

Những người có kĩ năng sống tốt thường dễ thành đạt hơn trong cuộc sống.

– Nếu không có kĩ năng sống tốt thì:

Con người thiếu tự tin, thiếu chủ động khi cuộc sống nảy sinh những vấn đề phức tạp.

Con người sẽ khó thành công hơn trong cuộc sống, không dám thể hiện, khẳng định mình trong các môi trường hoạt động.

c. Bài học

Nhận thức: Kỹ năng sống có vai trò rất quan trọng đối với tất cả mọi người, nhất là giới trẻ.

Hành động: Bên cạnh tích lũy kiến thức hàn lâm từ nhà trường, sách vở,… mỗi người cần thường xuyên trau dồi, rèn luyện, bồi dưỡng kĩ năng sống – kĩ năng mềm để dễ dàng thích nghi với cuộc sống hiện đại.

3. Kết bài

Khẳng định lại vấn đề

Dàn ý số 2

1. Mở bài

Giới thiệu về vấn đề cần nghị luận: ” Kĩ năng sống”

2. Thân bài

– Kỹ năng sống là gì?

– Vai trò, tầm trong trọng của kỹ năng sống trong cuộc sống

+ Kỹ năng sống đối với thế hệ trẻ

+ Những vấn đề gặp phải khi thiếu kỹ năng sống

– Phương pháp để học kỹ năng sống

– Mở rộng vấn đề

3. Kết bài

Khẳng định tầm quan trọng của kỹ năng sống

Nghị luận về kỹ năng sống – Mẫu 1

Nhà thơ người Đức Johann Wolfgang Goethe đã từng đưa ra một triết lí sống:

Thực vậy, xã hội ngày càng phát triển, kéo theo biết bao nhiêu là bộn bề phức tạp của cuộc sống đặt ra, đòi hỏi con người cần phải thực sự mạnh mẽ và tỉnh táo để có thể đương đầu, vượt qua trở ngại. Vì thế, để có thể bắt nhịp cùng với xu thế của thời đại, cũng như đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống đặt ra, con người hiện đại không những cần ra sức chiếm lĩnh tiếp thu kiến thức mà còn cần phải chăm chỉ học tập rèn luyện kĩ năng sống cho bản thân mình. Cho nên việc rèn luyện kĩ năng sống cũng quan trọng như việc tiếp thu kiến thức vậy!.

Trước hết, ta cần làm rõ khái niệm kĩ năng sống là gì?. “Kĩ năng sống” là những khả năng tương tác và thích nghi với hoàn cảnh, môi trường sống hay trước một tình huống nào đó được đặt ra trong cuộc sống. Đây là tập hợp tất cả các kĩ năng mà con người tiếp thu được, tích lũy được qua quá trình giáo dục và trải nghiệm trong thực tế khác quan như: kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng giao tiếp hiệu quả, kĩ năng đồng cảm hoặc kĩ năng phục hồi tâm lý mà theo như UNICEF gọi đó là khả năng tâm lý – xã hội. Còn “kiến thức” là những tri thức, là vốn hiểu biết của con người được nghiên cứu, tích lũy trong sách vở, truyền từ đời này sang đời khác. Câu nói: việc rèn luyện kĩ năng sống cũng quan trọng như là tích lũy kiến thức khẳng định tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống; đồng thời cần cân bằng giữa việc tích lũy kiến thức và kĩ năng sống, học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn, rèn luyện kiến thức gắn liền với rèn luyện các kĩ năng.

Kĩ năng sống có một vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống con người. Một con người có được những kĩ năng sống tốt sẽ thích nghi tốt hơn trong mọi hoàn cảnh sống, có thể ứng phó với mọi sự biến đổi bất thường trong cuộc sống, biến khó thành dễ, chuyển bại thành thắng, biến vất vả chông gai thành điều kiện, cơ hội. Chàng trai Nick Vujicic, một con người sinh ra đã thiếu tứ chi, ban đầu anh luôn mặc cảm về bản thân vì cho rằng mình chẳng giống ai, thậm chí là muốn kết thúc sự sống. Nhưng bằng sự động viên của cha mẹ và đặc biệt là sau khi đọc xong một bài báo viết về hình ảnh của một người cũng có hoàn cảnh như anh nên anh đã nỗ lực, vươn lên khẳng định mình trở thành một nhà diễn thuyết truyền cảm hứng sống và kĩ năng sống cho những con người thiếu may mắn như anh. Hay những cầu thủ U23 Việt Nam, nhờ tinh thần đoàn kết, kết hợp với kĩ năng hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, hiểu ý đồng đội trong quá trình thi đấu mà họ đã đem lại chiến thắng, đưa trận đấu vào trận chung kết của khu vực Châu Á 2023. Rèn luyện kĩ năng sống cũng giúp con người, đặc biệt là thế hệ trẻ có thể phát triển nhân cách, thể chất, tình cảm, giao tiếp, ngôn ngữ, tư duy một cách toàn diện, là nền tảng để giúp con người tự tin hơn trong cuộc sống. Về phương diện thể chất: giúp con người có sức khỏe tốt, cân đối, dẻo dai…; về phương diện tình cảm: bồi đắp cho con người tình yêu thương, sự sẻ chia, sự đoàn kết, gắn bó giữa con người với con người…; về phương diện ngôn ngữ và giao tiếp: giúp con người tự tin, giao tiếp hiệu quả, biết thuyết trình trước đám đông, biết lắng nghe, học hỏi mọi thứ xung quanh. Về phương diện tư duy nhận thức: kích thích sự sáng tạo, có những bước đột phá nhạy bén, đúng thời điểm cần thiết, năng động và dễ dàng ứng phó với mọi trở ngại bất thường. Ví dụ như ở Nhật Bản, một đất nước thường xuyên xảy ra động đất, núi lửa, sóng thần nên các trẻ em khi mới lớn lên đã được trang bị rất nhiều những kĩ năng sống để có thể chủ động ứng phó trước thiên tai, tự bảo vệ sự sống của mình trước những hiểm họa bất ngờ ập tới. Vì thế, những đứa trẻ đó thực sự rất tự tin trước những biến động của khí hậu, thời tiết thất thường. Bên cạnh đó, rèn luyện kĩ năng sống cũng giúp cho con người sống có bản lĩnh, có ước mơ, có lí tưởng sống tích cực, dám nghĩ dám làm, biết chịu trách nhiệm trước hành vi sai trái của bản thân, sống giàu lòng vị tha, tình thương yêu bác ái…

Tuy nhiên, cũng cần thấy được mối quan hệ giữa rèn luyện kĩ năng sống và tích lũy kiến thức là hai mặt của một vấn đề, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia. Nếu như kiến thức giúp con người có cơ sở lý luận khoa học, đúng đắn và chính xác trong nhìn nhận, đánh giá thì kĩ năng sống giúp cho con người trở nên kĩ xảo hơn, tinh tế, khéo léo hơn trong việc xử lí mọi tình huống bất kì nào đó được đặt ra. Trên thực tế có không ít người chỉ chăm lo tích lũy kiến thức mà quên đi việc trang bị cho mình những kĩ năng sống cần thiết hoặc ngược lại chỉ chú trọng tới kĩ năng sống mà bỏ bê việc trau dồi tri thức. Hậu quả là khó có thể bắt nhịp được với cuộc sống, luôn cảm thấy thiếu tự tin, không có hứng thú với cuộc sống, công việc của chính mình. Và hiện nay, có rất nhiều các bạn sinh viên, học sinh chỉ chú tâm vào bồi đắp kiến thức trên ghế nhà trường mà quên đi việc rèn luyện kĩ năng sống, tới khi va chạm với công việc, với những trải nghiệm thực tế thì cảm thấy ngại ngùng, lo lắng và thiếu niềm tin vào năng lực của bản thân mình. Hay cũng có những người chỉ biết quan tâm tới sự trải nghiệm thực tế với các kĩ năng sống của riêng mình mà quên đi việc tôi luyện kiến thức, dẫn tới sự vênh lệch về phát triển và hoàn thiện nhân cách của chính mình.

Vì thế, con người cần phải tự quăng mình ra ngoài xã hội. Hãy biết cách biến những lý luận khô khan trên trang sách thành những trải nghiệm thực tế khách quan để thấy được tính thực tiễn của chúng. Mặt khác cũng không nên chỉ chú trọng vào những kĩ năng sống, chỉ phục vụ cho nghề nghiệp chuyên môn của mình mà cần hình thành và rèn luyện các kĩ năng sống phong phú khác cần thiết để có thể đáp ứng được mọi tình huống, mọi vấn đề được đặt ra. Bởi cuộc sống vốn “đa sự, đa đoan” rất phong phú và phức tạp.

Tóm lại, rèn luyện kĩ năng sống và tích lũy kiến thức có một vai trò, ý nghĩa vô cùng quan trọng, cần thiết. Đặc biệt với thời đại xã hội phát triển như bây giờ thì lại càng đòi hỏi con người cần trang bị cho mình kiến thức, kĩ năng sống gắn với những năng lực tương thích lại càng lớn hơn. Có như vậy thì mới bắt kịp được với xu thế thời đại, khẳng định vị thế của bản thân đối với mọi người xung quanh.

Nghị luận về kỹ năng sống – Mẫu 2

Để có thể hòa nhập, thích ứng, sống và làm việc thành công trong cuộc sống hiện đại hôm nay, hành trang của bạn trẻ cần chuẩn bị nhiều thứ: tri thức, vốn văn hóa, ngoại ngữ, … đặc biệt là những kỹ năng sống cần thiết. Thiếu kỹ năng sống, thiếu kinh nghiệm làm việc, dễ bị lạm dụng, sống vô tâm là một thực trạng phổ biến trong giới trẻ ngày nay.

Đây chắc chắn là chuyện không của riêng ai: “con không biết nhặt rau, nấu ăn, giặt quần áo, quan tâm giúp đỡ người khác”. Ngay đến cả cái ăn cái uống cũng không biết tự phục vụ cho chính mình đã giống lên một hồi chuông cảnh tỉnh các bậc cha mẹ khi bấy lâu không chú trọng bồi dưỡng và rèn luyện kỹ năng sống cho con em mình.

Kỹ năng sống là tập hợp các hành vi tích cực và khả năng thích nghi cho phép mỗi cá nhân đối phó hiệu quả với các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày; nói cách khác là khả năng tâm lý xã hội. Đó là tập hợp các kỹ năng mà con người tiếp thu qua giáo dục hoặc trải nghiệm trực tiếp được dùng để xử lý các vấn đề và câu hỏi thường gặp trong đời sống con người.

Dẫn chứng về việc một bộ phận giới trẻ hiện nay thiếu kỹ năng sống một cách trầm trọng. Có bạn không biết quét lớp, vụng về lúng túng trong các hoạt động nhóm, không biết giải quyết tình huống bất ngờ: tai nạn giao thông, giao tiếp, …

Hiện tượng ấy không chỉ xảy ra đơn lẻ mà đã trở thành một hiện tượng phổ biến, một căn bệnh âm ỉ, có khả năng đe dọa trực tiếp đến tương lai của xã hội và giới trẻ hiện nay.

Thiếu kỹ năng sống, bạn trẻ không biết phục vụ bản thân thì làm sao trở thành một công dân biết sống cống hiến cho xã hội. Thiếu kỹ năng sống cần thiết làm lệch lạc cách nhìn nhận bản thân và thế giới xung quanh, không tạo dựng niềm tin, lòng tự trọng, thái độ tích cực và động lực cho bản thân để học tập tốt, lao động thành công.

Kỹ năng là một thành phần quan trọng của năng lực của con người. Thiếu kỹ năng sống, bạn trẻ khó hòa nhập với cuộc sống năng động hiện đại như ngày nay và khó thành công trong mọi việc. Các bạn có hiểu biết, có tri thức, nhưng thiếu kỹ năng sống, bạn trẻ sẽ giống như cái cây khô thiếu sinh khí, chỉ tồn tại mà không sống theo đúng ý nghĩa của cuộc sống.

Thiếu kỹ năng sống, các bạn trẻ sẽ không thể tự mình giải phóng và vận dụng năng lực tiềm tàng trong để hoàn thiện bản thân. Hầu hết các bạn trẻ ngày nay suy nghĩ theo lối mòn và hành động theo thói quen trên hành trình biến ước mơ thành hiện thực. Bởi thế, họ rất dễ bị lôi kéo vào những đám đông, bị cuốn hút bởi những thú vui tầm thường, thậm chí là nguy hại.

Kỹ năng sống giúp con người sống an toàn, làm được nhiều điều hữu ích, đóng góp sức mình xây dựng và phát triển xã hội. Thiếu kỹ năng sống khiến các bạn trẻ luôn hoang mang, sợ hãi, thiếu tự tin trước cuộc sống. Các bạn vẫn còn núp dưới cái bóng của gia đình, không dũng cảm tự lập, tự quyết tương lai. Thiếu kỹ năng sống khiến các bạn trẻ thường hành động nông nổi, tiêu cực.

Trước hết, việc giáo dục kỹ năng sống cho giới trẻ không được xem trọng từ gia đình và nhà trường. Với thói quen chăm lo cho con cái, gia đình bao bọc con em mình quá kỹ trong một môi trường không có thử thách khiến giới trẻ thiếu cơ hội để tự trải nghiệm, tự kết luận và đức kết bài học ,hình thành và hoàn thiện kỹ năng. Những “cậu ấm”, “cô chiêu” có thói quen ỷ lại, dựa dẫm… Nhiều gia đình nuông chiều con em mình quá mức khiến hoạt động trải nghiệm thực tế để học tập, rèn luyện kỹ năng và thái độ sống tích cực của giới trẻ bị hạn chế.

Nhà trường thiên về dạy kiến thức, định hướng nghề nghiệp, chưa thực sự quan tâm hay chú trọng dạy kỹ năng sống cho học sinh. Bởi thế, rèn luyện kỹ năng sống là một việc làm không được học sinh quan tâm đến, thậm chí là không hề biết. Do áp lực học hành thi cử, bạn trẻ không có đủ thời gian học những kỹ năng cần thiết cho mình…

Xã hội chưa quan tâm đến sự phát triển của giới trẻ. Khi nền kinh tế phát triển mạnh, con người bận rộn với công việc không còn thời gian để quan tâm đến các vấn đề chung nữa. Khoa học và công nghệ mở ra một thế giới mới cho phép giới trẻ có nhiều trải nghiệm song lại đưa đến những nguy hại khôn lường. Giới trẻ ngày càng lười biếng và vô cảm hơn.

Không có kỹ năng sống là căn bệnh ở một số bạn trẻ được nuông chiều quá mức, “hội chứng con một” hoặc quá tự đề cao bản thân chỉ muốn người khác phục vụ mình.

Gia đình và nhà trường cần phối hợp để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, tạo điều kiện để bạn trẻ phát huy khả năng… Bản thân mỗi học sinh cần tự thân vận động, không dựa dẫm vào cha mẹ, anh chị, bạn bè…

Kỹ năng sống là năng lực rất cần thiết đối với các bạn trẻ, giúp bạn sống cuộc đời có ý nghĩa. Là học sinh, chúng ta phải ra sức vừa học tập, và rèn luyện và hoàn thiện các kỹ năng sống cần thiết để xây dựng cuộc sống an toàn, thành công và hạnh phúc.

Hiện thực xã hội phơi bày trước mắt chúng ta biết bao sự việc về hiện tượng thiếu kỹ năng sống của các bạn trẻ, giống lên hồi chuông cảnh tỉnh cần thiết phải rèn luyện những kỹ năng sống cho bạn trẻ ngay từ trong gia đình đến trường học. Hãy bắt đầu ngay từ bây giờ. Sẽ không bao giờ là muộn nếu các bạn trẻ có đủ nghị lực và quyết tâm. Ngược lại, nếu các bạn buông bỏ, điều đó dự báo những điều tồi tệ sẽ đến ở tương lai.

Nghị luận về kỹ năng sống – Mẫu 3

Kỹ năng sống là một trong những kỹ năng rất cần thiết hiện nay mà hầu như tất ai cũng cần phải có. Xã hội phát triển dường như người ta không mấy quan tâm nhiều đến kiến thức lý thuyết mà thường quan tâm đến kỹ năng nhiều hơn.

Trước khi tìm hiểu về kỹ năng. Khái niệm kỹ năng bao là sự thành thạo công việc thể hiện qua năng lực, giải quyết vấn đề. Cách hiểu này nghiêng về mặt mặt kỹ thuật hành động. Kỹ năng chính là áp dụng tri thức khoa học vào thực tiễn, đảm bảo cho chủ thể biết cách tư duy đúng để tìm ra phương thức hành động đúng. Cách hiểu này nghiêng về năng lực của con người.

Tóm lại kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức, hiểu biết và thực tiễn, là hành động được thực hiện một cách thành thục, và thu được kết quả tốt, cụ thể kỹ năng là biết cách làm.

Con người phải có những kĩ năng nhất định để sống, để tồn tại. Ngoài những kỹ năng chung mà ai cũng phải có thì mỗi ngành nghề lĩnh vực khác nhau sẽ có những kỹ năng đặc biệt, phù hợp với ngành nghề của mình. Con người sẽ rất dễ nhận ra kỹ năng chuyên môn của mình, và có ý thức học tập trau dồi để trau dồi kỹ năng của mình. Con người, cần phải trau dồi kỹ năng của mình. Đặc biệt trong xã hội hiện đại thì việc trau dồi kỹ năng sống rất quan trọng. Nó sẽ giúp chúng ta đạt được thành công trong cuộc sống và công việc.

Khi làm bất cứ một ngành nghề gì chúng ta cần trau dồi cho mình một kỹ năng nhất định. Bởi lẽ kỹ năng sống sẽ giúp chúng ta thiên biến vạn hóa để phục vụ cho chúng ta. Đôi khi kỹ năng sống quyết định rất nhiều đến sự thành công nên chúng ta cần chú ý đến việc học kỹ năng sống.

Việc học kỹ năng sống không phải ở đâu cao siêu mà chính là học từ trong cuộc sống, các mối quan hệ, va chạm hằng ngày, dần dần sẽ hình thành được tư duy giải quyết công việc cho chúng ta. Những va vấp trong cuộc sống, sẽ giúp cho kỹ năng sống của chúng ta thêm dạn dày hơn, càng ngày càng phong phú hơn. Nếu như con người mãi mãi được bao bọc mà không có sự va chạm thì chúng ta không thể trưởng thành được và cũng không thể có được kỹ năng. Chính vì thế hãy luôn luôn tạo sự năng động cho bản thân, tham gia vào tất cả các hoạt động không sợ khó không sợ khổ nó sẽ rất hữu ích cho cuộc sống sau này.

Nghị luận về kỹ năng sống – Mẫu 4

Quá trình tồn tại và thống trị thế giới đã khẳng định những năng lực ưu việt của con người so với những loài vật khác. Trong đời sống xã hội, con người muốn thành công, ngoài nhiệm vụ tích lũy tri thức vững chắc còn cần phải rèn luyện cho mình thật nhiều kỹ năng sống mạnh mẽ. Thế nhưng, khi xã hội càng phát triển, việc giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cho giới trẻ đã không được quan tâm, khiến nhiều bạn trẻ thiếu kỹ năng sống cần thiết. Tình trạng đó gây ra những hậu quả nghiêm trọng, là hồi chuông cảnh tỉnh toàn xã hội trước tương lai của tuổi trẻ.

Kỹ năng sống là tập hợp các hành vi tích cực và khả năng thích nghi cho phép mỗi cá nhân đối phó hiệu quả với các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày. Nói cách khác, đó là tập hợp các kỹ năng mà con người tiếp thu qua giáo dục hoặc trải nghiệm trực tiếp được dùng để xử lý các vấn đề và câu hỏi thường gặp trong đời sống con người.

Một số kỹ năng sống quan trọng đảm bảo cho sự sinh tồn, phát triển và thành công của con người cần có như: Đưa ra quyết định; Giải quyết vấn đề; Tư duy sáng tạo; Tư duy phản biện/sáng suốt; Giao tiếp hiệu quả; Mối quan hệ tương tác giữa các cá nhân; Tự ý thức về bản thân.Chánh niệm; Quyết đoán; Đồng cảm; Tha thứ; Đối phó với căng thẳng, tổn thương và mất mát; Khả năng phục hồi tâm lý sau chấn thương.

Thành công chỉ thực sự đến với những người biết thích nghi để làm chủ hoàn cảnh và có khả năng chinh phục hoàn cảnh. Vì vậy, kỹ năng sống sẽ là hành trang không thể thiếu đối với các bạn trẻ ngày nay. Biết sống, làm việc và thành đạt là ước mơ không quá xa vời; là khát khao chính đáng của những ai biết trang bị cho mình những kỹ năng sống cần thiết và hữu ích.

Có kỹ năng sống tốt giúp thúc đẩy thay đổi cách nhìn nhận bản thân và thế giới, tạo dựng niềm tin, lòng tự trọng, thái độ tích cực và động lực cho bản thân, tự mình quyết định số phận của mình. Kỹ năng sống giúp giải phóng và vận dụng năng lực tiềm tàng trong mỗi con người để hoàn thiện bản thân, tránh suy nghĩ theo lối mòn và hành động theo thói quen trên hành trình biến ước mơ thành hiện thực.

Kỹ năng sống giúp con người sống an toàn, làm được nhiều điều hữu ích, đóng góp sức mình xây dựng và phát triển xã hội. Có kỹ năng sống, con người sẽ bớt đi nỗi sợ hãi, thêm niềm tin, sống hạnh phúc và hài lòng về cuộc sống của mình. Chỉ khi con người cảm thấy hạnh phúc mới cống hiến cho xã hội được nhiều hơn.

Khối lượng kiến thức của chúng ta trở nên lỗi thời nhanh chóng trong thời đại mới. Trong môi trường không ngừng biến động như thế, con người luôn đối diện với áp lực cuộc sống từ những yêu cầu ngày càng đa dạng, ngày càng cao trong quan hệ xã hội, trong công việc và cả trong quan hệ gia đình. Quá trình hội nhập với thế giới đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ngoài kiến thức chuyên môn, yêu cầu về các kỹ năng sống ngày càng trở nên quan trọng. Thiếu kỹ năng sống con người dễ hành động tiêu cực, nông nổi dẫn đến thất bại.

Cuộc đời là một hành trình mà tri thức là một bệ phóng, còn kỹ năng sống chính là động lực đẩy con người vươn lên tầm cao thành đạt. Không có thành công nào tự tìm đến với chúng ta, không có hạnh phúc nào tự nó nảy nở, tất cả đều do chúng ta tạo lấy. Thực tế cho thấy những người thành đạt và có cuộc sống hạnh phúc trong cuộc sống thường hội tụ ở bản thân rất nhiều kỹ năng sống.

Gia đình là môi trường nền tảng tốt nhất để dạy cho giới trẻ các kỹ năng sống cần thiết. Giáo dục kỹ năng sống thường được dạy qua quá trình giáo dục con cái, hoặc trực tiếp với mục đích giảng dạy một kỹ năng cụ thể trong nhà trường. Bản thân cha mẹ có thể được coi là một tập hợp các kỹ năng sống mà con cái sẽ tiếp thu một cách tự nhiên hoặc được dạy.

Việc giáo dục một người có kỹ năng để ứng phó với việc mang thai và nuôi dạy con cái cũng có thể trùng khớp với việc phát triển kỹ năng sống bổ sung cho đứa trẻ và giúp cha mẹ hướng dẫn trẻ ở tuổi trưởng thành.

Nhà trường là cơ sở quan trọng nhất hình thành và bồi dưỡng kỹ năng sống cho học sinh. Rèn luyện kỹ năng sống là một quá trình lâu dài, bền bỉ. Do đó, không phải vì kỹ năng sống có tầm quan trọng rất lớn mà cố đưa vào chương trình giảng dạy cho các bạn trẻ nhiều chuyên đề mang tính lý thuyết. Điều cần thiết là làm cho mọi người ý thức được tầm quan trọng của kỹ năng sống và lồng nó vào các môn học. Những người đã đi làm thì cần bổ sung một vài chuyên đề cần thiết mà bản thân còn yếu để nâng cao năng lực và hiệu quả công việc.

Giáo dục cần trang bị cho người học những kỹ năng thiết yếu như ý thức về bản thân, làm chủ bản thân, đồng cảm, tôn trọng người khác, biết cách hợp tác và giải quyết hợp lý các mâu thuẫn, xung đột.

Xã hội là môi trường tốt nhất để các bạn trẻ thực hành, trải nghiệm kỹ năng sống. Bởi thế, cộng đồng cũng cần phải chung tay góp sức rèn luyện kỹ năng sống cho giới trẻ, tạo những điều kiện thuận lợi để các bạn hoàn thiện bản thân mình. Cộng đồng đình trệ khi không có thôi thúc của cá nhân. Thôi thúc của cá nhân sẽ mau chóng tàn lụi nếu không có sự cảm thông của cộng đồng.

Bản thân các bạn trẻ phải không ngừng nỗ lực bồi dưỡng, hình thành và rèn luyện kỹ năng sống của mình. không phải là một vài kỹ năng mà là một hệ thống các kỹ năng phù hợp với thế giới xung quanh, giúp bạn sống an toàn, học tập tiến bộ, làm việc thành công, cảm nhận được hạnh phúc. Các bạn trẻ phải luôn nỗ lực để cân bằng các giá trị của bản thân. Đừng để ý chí mình gầm lên trong khi năng lực của mình chỉ đủ sức thì thầm.

Mọi công việc thành đạt đều nhờ sự kiên trì và lòng say mê. Người bi quan luôn tìm thấy những khó khăn trong mọi cơ hội. Người lạc quan luôn nhìn được những cơ hội trong từng khó khăn. Sự thay đổi của cuộc sống là điều không thể tránh khỏi. Bởi thế, việc của chúng ta đơn giản là lựa chọn cách để vượt qua mà thôi.

Thật đáng buồn khi ngày nay còn có rất nhiều bạn trẻ thiếu kỹ năng sống, đặc biệt là ở các đô thị lớn. Dù đã bước vào tuổi trưởng thành, thế nhưng nhiều người vẫn sống dựa dẫm vào người khác, không biết xử lí tình huống để xảy ra những hậu quả tai hại.

Rèn luyện kỹ năng sống là nhiệm vụ sống còn của giới trẻ ngày nay. Trong khi, ngày càng có nhiều người trở nên lười biếng, dựa dẫm, ỷ lại thì việc rèn luyện kỹ năng sống cho thanh niên và học sinh là thực sự rất cần thiết. Là học sinh, hãy rèn luyện kỹ năng sống ngay từ bây giờ để học tập tiến bộ, mai này đem sức mình xây dựng quê hương, đất nước.

Nghị luận về kỹ năng sống – Mẫu 5

Kỹ năng sống chính là thước đo, là động lực để mỗi người chúng ta có thể tự hoàn thiện bản thân mình từng ngày. Kỹ năng sống có thể thay đổi nhưng là thay đổi theo chiều hướng tích cực. Khi xã hội ngày càng phát triển, việc trau dồi và rèn luyện những kỹ năng sống cơ bản nhất sẽ giúp cho mỗi người thấy tự tin hòa nhập với cộng đồng hơn. Trong đó rèn luyện sự thích nghi là một trong những kỹ năng quan trọng, làm đòn bẩy để cho chúng ta ngày càng phát triển hơn.

Kỹ năng sống thích nghi là một kĩ năng giúp cho mỗi người có thể sống tự tin, sống lành mạnh trong bất cứ một môi trường nào đó. Đặc biệt đối với thế hệ trẻ thì sự thích nghi càng trở nên cần thiết và cấp bách phải rèn luyện thường xuyên.

Sự thích nghi thể hiện ở việc thích nghi với môi trường sống, với những con người mới, công việc mới, suy nghĩ mới. Bởi chúng ta không bao giờ sống chỉ suy nhất trong một môi trường, tiếp xúc với những người thân quen. Ai cũng có lúc phải trưởng thành, phải tự lập, phải làm việc; lúc đó sẽ phải thay đổi môi trường sống, phải tiếp xúc với nhiều người. Kỹ năng thích nghi trong thời gian này là điều cần thiết cần phải phát huy hơn nữa. Bởi nếu không thích nghi thì chúng ta không thể hòa nhập cũng như bắt kịp với xu thế của xã hội.

Đối với thế hệ trẻ, việc thích nghi không những giúp cho họ có thể mở rộng thêm nhiều mối quan hệ, cọ xát tiếp xúc với nhiều người mà còn nâng cao sự tự tin hơn nữa. Tự tin là điều mà xã hội cần ở những người trẻ. Vì tự tin cũng chính là một biểu hiện của sự thích nghi trước bất kỳ môi trường sống nào.

Tôi từng quen biết một cô bé chuẩn bị bước sang lớp 10. Gia đình em chuyển vào miền nam sinh sống, em phải làm quen với môi trường mới, cuộc sống mới, trường học và các bạn bè đều mới. Tính em vốn nhút nhát, ngại giao tiếp, ngại va chạm. Nhưng được sự động viên, khích lệ của mọi người em đã dần dần thích nghi với môi trường mới, càng ngày em càng hòa đồng và trở thành một người năng động tham gia rất nhiều hoạt động. Sự thích nghi đã khiến cô bé nhút nhát trở nên tự tin và hài lòng với bản thân mình hơn.

Môi trường đại học là nơi mà tất cả các bạn sinh viên khi đặt chân vào đây đều phải học kỹ năng thích nghi. Bởi đây là môi trường hoàn toàn khác so với trước đấy. Nếu không thích nghi thì sinh viên sẽ mãi dậm chân tại chỗ, không có ý chí, không có lập trường, sống không hòa đồng. Chúng ta có thể giúp đỡ nhau để làm tốt kỹ năng thích nghi này để hoàn thiện bản thân mình từng ngày.

Tuy nhiên cần hiểu kỹ năng sống thích nghi theo nghĩa tích cực, cần chọn môi trường, con người phù hợp, tốt cho bản thân mình thì hòa đồng. Không nên thích nghi với những thứ không lành mạnh, xấu xa có thể trực tiếp khiến cho bản thân bạn rơi vào sai lầm. Bởi vậy kỹ năng thích nghi còn là phải biết cách nên và không nên thích nghi với môi trường nào. Nắm rõ được kỹ năng này thì chúng ta không ai sợ lạc lõng và đi vào con đường sai lầm.

Sự thích nghi sẽ là cái bàn đạp tạo nên sự thành công của mỗi người. Vì khi thích nghi chúng ta sẽ nhanh chóng tiếp thu được kiến thức và rất nhiều kỹ năng khác từ nhiều người, nhiều môi trường.

Sự cần thiết của kỹ năng thích nghi trong thời đại hiện nay lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Nó sẽ làm nên sự tự tin, ham học hỏi, ham tìm hiểu, có thể thích nghi với bất kỳ hoàn nào khó khăn nào đi chăng nữa. Thích nghi sẽ giúp chúng ta có thể vượt qua chính bản thân mình.

Kỹ năng sống thích nghi không dành riêng cho bất kỳ ai, nhưng đối với thế hệ trẻ, tương lai của đất nước thì nó càng cần được xem trọng và rèn luyện thường xuyên hơn. Như thế chúng ta mới có thể tự tin, hòa đồng và dám làm, dám nghĩ đến những điều tưởng chừng rất khó.

Nghị luận về kỹ năng sống – Mẫu 6

Cuộc sống con người ngày càng phát triển, bởi vậy đòi hỏi với mỗi cá nhân ngày càng cao hơn. Để tồn tại trong thế giới hiện nay mỗi người phải hình thành cho mình những kỹ năng sống cơ bản. Những kỹ năng sống này sẽ giúp bạn có thể vượt qua mọi khó khăn, thử thách để vươn đến thành công. Bởi vậy, “việc rèn luyện kĩ năng sống cũng quan trọng như tiếp thu kiến thức”.

Trước hết ta cần hiểu thế nào là kĩ năng sống? Hiểu một cách đơn giản nhất kĩ năng sống là những năng lực cần thiết con người cần có để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống một cách có hiệu quả và mang lại những kết quả tốt đẹp. Kỹ năng sống còn là khả năng mỗi cá nhân duy trì một trạng thái tinh thần khỏe mạnh, minh mẫn, có cách ứng xử phù hợp với mọi người xung quanh.

Bất cứ loài vật nào cũng phải hình thành kĩ năng sống cho riêng mình. Con thỏ rèn cho mình kĩ năng chạy nhanh để trốn thoát sự truy đuổi của kẻ thù; con hổ phải rèn cho mình những kĩ năng cơ bản để có thể bắt mồi; nếu chúng không có những kỹ năng ấy tất yếu sẽ bị triệt tiêu. Con người cũng không nằm ngoài vòng sinh tồn ấy. Nếu không có những kĩ năng sống cơ bản con người sẽ bị xã hội loại trừ. Nếu mỗi người chỉ biết học tập, tiếp thu tri thức mà quên mất việc rèn luyện kĩ năng sống cơ bản thì dần dần sẽ bị tụt lùi và bị xã hội đào thải.

Như chúng ta đã biết giữa rèn luyện kĩ năng sống và tích lũy kiến thức có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tích lũy kiến thức là quá trình chúng ta thu thập kiến thức trong nhà trường, đây là nền tảng cơ bản để rèn luyện kĩ năng sống; kĩ năng sống là quá trình đưa những tri thức đã tích lũy được vào thực tiễn đời sống. Nếu chúng ta chỉ chìm đắm mãi trong sách vở, thì những kiến thức kia cũng mãi chỉ nằm trên giấy, phải đưa chúng vào thực hành thì chúng mới trở nên có ích. Bởi vậy rèn luyện kĩ năng sống sau quá trình học lại càng cần thiết và quan trọng hơn nữa.

Tích lũy kiến thức là bước cơ bản đầu tiên của mỗi cá nhân giúp tăng vốn hiểu biết, là cơ sở để khám phá thế giới. Nhưng tích lũy kiến thức không thôi là chưa đủ để vững vàng bước vào tương lai, mà phải có cả kinh nghiệm, sự trải nghiệm thực tế cuộc sống. Xã hội hiện đại không ngừng phát triển và liên tục biến đổi, tạo nên những tình huống mới mà con người phải tìm cách vượt qua, chinh phục chúng. Nếu chỉ có tri thức sách vở không thôi, chúng ta không thể giải quyết muôn mặt vấn đề đời sống được. Hơn nữa tri thức về một vấn đề chỉ có một nhưng tình huống trong cuộc sống lại muôn hình vạn trạng khác nhau. Bởi vậy không thể áp dụng một tri thức cho tất cả các tình huống đó mà phải có kĩ năng giải quyết các vấn đề khác nhau. Như vậy, trong xã hội hiện đại con người càng cần hơn nữa những kĩ năng sống cơ bản để thích nghi và nâng cao chất lượng cuộc sống của chính mình.

Rèn luyện kĩ năng sống có vai trò hết sức quan trọng đối với mọi người. Trong cuộc sống hiện đại, với mức độ công nghiệp hóa hiện đại hóa diễn ra ngày càng nhanh chóng thì việc hình thành kĩ năng sống lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Cuộc sống hiện đại đòi hỏi con người phải không ngừng tự hoàn thiện bản thân, nâng cao tầm giá trị của chính mình. Kĩ năng sống giúp con người có thể xử lí linh hoạt các tình huống bất ngờ xảy ra. Không chỉ vậy khi có kĩ năng sống bạn sẽ cảm thấy bình tĩnh, tự tin, chủ động hơn trong cuộc việc. Và những người có kĩ năng sống thường dễ đạt được thành công hơn. Ngược lại những kẻ không hình thành được kĩ năng sống cho bản thân thường rụt rè, nhút nhát. Bất cứ vấn đề gì cũng e sợ, không giải quyết được những vấn đề của cuộc sống. Và những người này tỉ lệ thành công thường rất hiếm hoi.

Để rèn luyện thành thục kĩ năng sống chúng ta cần phải một số điều cơ bản sau. Trước hết cần tích lũy cho mình vốn tri thức phong phú, dồi dào. Luôn quan sát những gì xảy ra xung quanh, tự rút ra cho bản thân những bài học, những kinh nghiệm. Không ngừng thử nghiệm những cái mới, không sợ khó khăn gian khổ, bởi kĩ năng sống của mỗi người được hình thành từ chính quá trình trải nghiệm. Càng trải nghiệm nhiều con người càng có nhiều kĩ năng sống. Sống thân thiện, hòa đồng với mọi người xung quanh. Trong nhà trường cần có những khóa học trải nghiệm giúp học sinh hình thành những kĩ năng sinh tồn ngay từ khi còn nhỏ.

Vậy có những kĩ năng sống cơ bản nào chúng ta cần hình thành: kĩ năng sinh tồn, kĩ năng tự giải quyết vẫn đề, kỹ năng quản lí thời gian, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng giao tiếp, ứng xử với mọi người xung quanh, kĩ năng cảm thông, bao dung. Đó là một trong những kĩ năng cơ bản chúng ta cần có để sinh tồn trong thế giới hiện đại.

Bên cạnh những học sinh có ý thức tôi luyện cả kĩ năng sống lẫn kiến thức sách vở, thì có những bộ phận học sinh lại chỉ chú trọng đến việc tích lũy kiến thức mà quên đi rèn luyện những kĩ năng sống. Điều đó khiến các bạn sẽ gặp khó khăn khi bước vào cuộc sống, bỡ ngỡ và bỏ lỡ nhiều cơ hội để vươn đến thành công.

Rèn luyện kĩ năng sống và tích lũy kiến thức là hai quá trình cần thực hiện song song với nhau. Thực hiện được cả hai yếu tố này sẽ giúp chúng ta dễ dàng vượt qua được những trở ngại trong cuộc sống. Bản thân mỗi người cần ý thức đầy đủ về vấn đề này để có cách phân phối hài hòa giữa tích lũy kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống.

Nghị luận về kỹ năng sống – Mẫu 7

Một người muốn đạt được thành công thì phải tự hoàn thiện bản thân mình về tài năng và phẩm chất đạo đức, và một trong những nhân tố không thể thiếu quyết định thành công của con người đó chính là kỹ năng sống.

Vậy kỹ năng sống là gì? Tại sao mỗi người chúng ta lại cần kỹ năng sống? Để trả lời cho hai câu hỏi trên trước hết chúng ta cùng đến với một tình huống thực tế. Giả sử bạn đang đi tham quan học tập cùng với các bạn của mình nhưng rồi vì vấn đề nào đó mà bạn bị tách khỏi đoàn và đi lạc vào một khu rừng, khi ấy bạn sẽ làm gì? Nếu bạn là người có kĩ năng sống thì chắc hẳn bạn sẽ biết tiếp theo mình phải làm gì nhưng nếu bạn lại hoàn toàn non nớt về những tình huống không ngờ như thế thì sao, phải chăng bạn sẽ bất lực bởi quá lo lắng và sợ hãi, bạn sợ đủ thứ trong rừng vì thế không thể nghĩ ra được biện pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề của mình. Đến đây chắc các bạn cũng đã hình dung ra phần nào về kỹ năng sống, đúng vậy kĩ năng sống được hiểu theo đúng cái tên của nó. Là kỹ năng giải quyết những vấn đề bất ngờ không mong muốn xảy đến với mình và mọi người, có kỹ năng sống sẽ giúp chúng ta tồn tại và sống sót trong những tình huống khó khăn nhất.

Cuộc sống luôn ẩn chứa nhiều hiểm họa, thách thức và không ai trong chúng ta có thể đoán trước được chuyện gì sẽ xảy ra, vậy nên việc học tập kỹ năng sống là rất quan trọng. Hiện nay có rất nhiều trung tâm hay tổ chức chuyên về đào tạo kỹ năng sống cho mọi người đặc biệt là lứa tuổi trẻ em còn non nớt trong những tình huống có thể xảy ra trong cuộc sống. Thế nhưng không phải gia đình nào cũng có điều kiện để chi trả một số tiền lớn giúp con em mình tiếp thu kiến thức bảo vệ và giữ an toàn cho bản thân mình trong những lúc khó khăn. Vấn đề này chúng ta có thể dễ dàng hiểu bởi bạn có thể thấy được sự khác biệt giữa những đứa trẻ nông thôn và thành phố. Đa số em nhỏ thành phố có kĩ năng sống tốt hơn những em nhỏ ở nông thôn, tưởng rằng ở nông thôn nhiều sông suối thì đương nhiên trẻ em ở đó sẽ biết bơi thế nhưng không phải, vì hiện nay vấn đề ô nhiễm môi trường trở nên nghiêm trọng dẫn đến trẻ em nông thôn không có môi trường cũng như điều kiện để học bơi, còn đối với trẻ em thành phố thì chúng có thể bơi được dễ dàng vì từ nhỏ cha mẹ đã cho chúng đến các bể bơi để học bơi. Mấu chốt chính là ở đó. Vậy nhưng, không phải lúc nào trẻ em thành phố cũng có kỹ năng hơn trẻ em nông thôn, có thể vì thiếu thốn nhiều thứ mà những đứa trẻ nông thôn được học tập kỹ năng sinh tồn để khắc phục hoàn cảnh, chúng có thể biết nhiều hơn những đứa trẻ thành phố.

Kỹ năng sống là một trong những điều kiện bắt buộc phải có để con người có thể tồn tại, bất kể là người giàu hay người nghèo. Bạn đừng tưởng rằng người giàu có điều kiện thì không cần phải học kỹ năng sống vì họ sẽ không gặp phải những tình huống éo le. Sự thật thì những người có điều kiện càng phải học, đã bao giờ bạn nghe đến câu chuyện cướp ngân hàng hay những câu chuyện ghê rợn của những người đang trong chuyến du lịch của mình. Giả sử họ gặp một băng cướp và tình trạng rất nguy kịch, nếu lúc đó họ không có kỹ năng sống thì liệu họ có thể đủ bình tĩnh để khôn khéo đưa ra biện pháp khắc phục. Tình huống khó khăn hơn nữa là khi du thuyền của những người giàu bị mắc kẹt ở một hòn đảo hoang, lúc này tiền nhiều cũng không thể giúp gì cho họ, họ chẳng thể lấy thẻ tín dụng ra để quẹt rồi lấy tiền đó chăm lo cho cuộc sống của mình. Lạc ở hòn đảo hoang đầy nguy hiểm như thế thì nếu không có kỹ năng sống liệu họ thực sự có thể tồn tại?

Advertisement

Kỹ năng sống không chỉ là khả năng xử lí tình huống và giữ mạng sống khi rơi vào tình huống khó khăn mà còn bao gồm cả khả năng quản lý tốt tài chính và thời gian của mình. Học kỹ năng sống cũng đồng nghĩa là bạn học cách tự lập, tự quản lý thời gian và các vấn đề cá nhân của mình. Bạn trở nên hoàn thiện hơn về con người và có thể tự xoay sở trong mọi tình huống, đó chính là cái đích của việc học kỹ năng sống.

Không chỉ thế, kỹ năng sống còn là việc mình điều khiển được cảm xúc bản thân để hòa thuận với mọi người. Điều này hoàn toàn quan trọng đặc biệt là với thế hệ trẻ ngày nay, bạn cũng có thấy trên báo đài nổi lên những vụ gây gổ của học sinh với nhau, đó tuy chỉ là những vấn đề nhỏ thế nhưng các em lại tự khiến câu chuyện trở nên nghiêm trọng và kéo bè đến giải quyết bằng vũ lực. Trong cuộc sống không phải lúc nào mọi chuyện cũng như mong muốn, có thể có nhiều tình tiết khác nhau dẫn đến hiểu lầm và cách giải quyết là phải lắng nghe nhau để từ từ xua đi hiểu lầm không đáng có chứ không phải dùng cái hung hăng thiếu suy nghĩ của tuổi trẻ để giải quyết, những người nông cạn với suy nghĩ nông nổi sẽ không thể làm nên chuyện trong cuộc đời của mình.

Nếu bạn chưa tự tin về khả năng xử lý tình huống của mình thì cũng đừng sợ phải tham gia vào những điều mới mẻ bởi chúng ta cũng có thể học được từ những việc mà mình chưa thử, vấp ngã và sai lầm sẽ giúp chúng ta ghi nhớ sâu hơn những bài học cuộc sống, có được những kinh nghiệm quý báu góp thêm hành trang cho kĩ năng sống của mình.

Nghị luận xã hội về kỹ năng sống – Mẫu 8

Trong những năm gần đây vấn đề kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống đang là vấn đề “nóng” được giới nghiên cứu và xã hội quan tâm, nhất là trước tình trạng báo động về nhân cách, đạo đức, lối sống của một bộ phận giới trẻ đương đại. Thế nhưng tình hình chung ở các trường phổ thông hiện nay là phần lớn thời gian dạy học đều dành hết cho các môn học chính khóa còn kĩ năng sống ít được quan tâm, hoặc là lồng ghép với các hoạt động khác như ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp. Giáo dục cần phải hướng đến một chương trình toàn diện, dạy học là dạy cả tri thức, kỹ năng và thái độ sống để học sinh có thể hội nhập, thích nghi với cuộc sống tương lai. Chính vì vậy chúng ta phải suy nghĩ đến ý kiến sau: “Việc rèn luyện kỹ năng sống cũng cần thiết như việc tích lũy kiến thức”.

Kĩ năng sống là khả năng thích nghi, ứng phó và giải quyết các tình huống thực tiễn. Kiến thức là những hiểu biết có được từ sách vở và đời sống thông qua quá trình học tập và trải nghiệm. Ý kiến trên đã khẳng định việc rèn luyện kĩ năng sống và tích lũy kiến thức đều cần thiết.

Điều đầu tiên chúng ta cần khẳng định việc tích lũy kiến thức giúp con người tăng vốn hiểu biết để khám phá thế giới, khẳng định bản thân. Thế nhưng, chỉ tích lũy kiến thức là không đủ để chuẩn bị cho tương lai. Nhà tâm lí học Ba Lan Krytyna Skarzyska đã khẳng định: “Sự thành công của mỗi người chỉ có 15% là dựa vào kĩ thuật chuyên ngành, còn 85% là dựa vào những quan hệ giao tiếp và tài năng xử thế của người đó”. Xã hội hiện đại có những thay đổi về kinh tế, văn hóa, xã hội và lối sống, một mặt sự phát triển của xã hội hiện đại làm cho chất lượng cuộc sống của con người ngày càng tốt hơn, những mặt khác làm nảy sinh những vấn đề mới mà trước đây con người chưa gặp, chưa trải nghiệm, chưa biết cách đương đầu, đồng thời mức độ phức tạp, khó khăn của những vấn đề cũ đã gặp trước đây cũng có xu hướng tăng lên. Như vậy trong xã hội hiện đại con người càng cần có kĩ năng sống để thích nghi tốt hơn và nâng cao chất lượng cuộc sống, thích ứng và hòa nhập với môi trường một cách tốt nhất. Tại Mĩ, từ những năm 1916, người ta đã nhận ra rằng tri thức nhân loại là rất lớn nhưng để thực hành thành thạo và áp dụng, ứng dụng vào cuộc sống thì thường không như mong muốn. Cho nên mỗi người dân lao động tại Mĩ phải đảm bảo thực hành và phải được các tổ chức công nhận là đã qua 13 kĩ năng bắt buộc. Kĩ năng sống góp phần thúc đẩy cá nhân và xã hội, ngăn ngừa được các vấn đề tiêu cực nảy sinh trong xã hội, bảo vệ sức khỏe và quyền con người. Các cá nhân thiếu kĩ năng sống là một nguyên nhân nảy sinh nhiều vấn đề lệch chuẩn. Người có kĩ năng sống biết cách bảo vệ mình trước những yếu tố bất lợi của cuộc sống, biết xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp, nhân văn và từ đó góp phần làm giảm tệ nạn xã hội, làm cho xã hội phát triển, văn minh.

Rèn luyện kĩ năng sống và tích lũy kiến thức có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại: tích lũy kiến thức làm nền tảng cho việc hình thành, rèn luyện kĩ năng sống; rèn luyện kĩ năng sống là điều kiện để vận dụng hiệu quả kiến thức vào thực tế. Kĩ năng sống như một phản xạ, xuất phát từ chính vốn sống, tính cách của mỗi người. Kĩ năng sống không tự nhiên mà có. Đó là một quá trình học tập, tích lũy và rèn luyện của chính bản thân mỗi người. Mỗi người cũng có thể tự trang bị kĩ năng sống bằng cách quan sát, học hỏi những điều hay, điều tốt từ những người xung quanh mình, tự trải nghiệm cuộc sống với những hoạt động như đi du lịch, tham gia các chương trình, hoạt động đoàn thể, cộng đồng. Do vậy chúng ta cần phê phán những lối suy nghĩ một chiều, chỉ chú trọng vào những kiến thức sách vở mà quên đi việc rèn luyện những kĩ năng sống, từ đó khi đối mặt với khó khăn sẽ không có kinh nghiệm giải quyết những vấn đề thực tiễn. Hơn thế, giáo dục kĩ năng sống cần cả một quá trình giáo dục từ gia đình đến nhà trường và cả xã hội. Trong đó có thể nói giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo là một trong nhiều con đường hình thành kĩ năng sống ở mỗi người, nhưng giáo dục kĩ năng sống theo con đường giáo dục nhà trường sẽ đảm bảo vai trò chủ đạo của giáo dục và có thể đem lại hiệu quả cao hơn nhờ tính khoa học và tính chuyên nghiệp của nó.

Lewis L. Dunnington từng nói: “Ý nghĩa của cuộc sống không phải ở chỗ nó đem đến cho ta điều gì mà ở chỗ ta có thái độ đối với nó ra sao, không phải ở chỗ điều gì xảy ra với ta, mà ở chỗ ta phản ứng với những điều đó như thế nào”. Nhìn lại ý kiến trên, chúng ta có thể khẳng định việc cân bằng giữa kiến thức và kĩ năng sống giúp cuộc sống con người không chỉ thuận lợi hơn mà còn có thể tạo ra nhiều giá trị thực sự trong cuộc sống. Chính vì vậy mà việc nhận thức được tầm quan trọng và biết kết hợp hài hòa, linh hoạt giữa rèn kĩ năng sống với tích lũy kiến thức sẽ giúp mỗi người hoàn thiện bản thân và giúp cuộc sống chúng ta tốt đẹp hơn.

…………

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Món Bánh Xèo 2 Dàn Ý &Amp; 12 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 8 Hay Nhất trên website Pwqy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!